Sự Thật Và Giả Dối Ở Đâu?
Ngày 31 tháng 10 năm 2017 đánh dấu tròn 500 năm cái gọi là công cuộc Cải Cách của Luther – The Reformation of Luther. Vatican chào mừng biến cố này bằng việc loan tin sẽ cho phát hành bộ tem có hình Martin Luther tay cầm cuốn Kinh Thánh đang quỳ dưới chân thánh giá! Ngoài ra, còn có vô số những sự kiện và sinh hoạt đại kết khác diễn ra trong Giáo Hội, cấp hoàn vũ cũng như địa phương, để mừng sự kiện này.
Qua tất cả những sinh hoạt đại kết trong suốt những năm qua, người ta đã phù phép biến hoá, làm cho Công Cuộc Cải Cách của Luther (thực chất là công cuộc phá hoại của Luther – The Destruction of Luther) trở thành một công trình của Chúa Thánh Thần, một nguồn ơn phúc lớn lao cho Giáo Hội! Còn cá nhân Martin Luther, nhân vật chính của Công Cuộc Cải Cách, từ vị thế của kẻ tội đồ phá hoại, bị Giáo Hội kết án là lạc giáo và phạt vạ tuyệt thông, nay trở thành ân nhân và thánh nhân! Chuyện này là thế nào? Đâu là sự thật? Đâu là giả dối?
Thời Giờ Đã Mãn xin giúp bạn đọc tìm ra câu trả lời bằng cách nhắc lại sự thật về những sai lầm căn bản của Luther và sự thật về việc Luther đã bị Giáo Hội kết án lạc giáo và vạ tuyệt thông.
Trước khi phân tích những sai lầm của Luther, và để giữ cho đầu óc được tỉnh táo trong sáng, chúng ta cần phải hiểu đúng đắn và nắm chắc những ý niệm vềđức tin (faith), về sự công chính hoá (justification), và vai trò của việc lành(the role of good work) mà Mẹ Giáo Hội đã dạy chúng ta. Chúng ta phải nắm vững các ý niệm này để lỡ chúng ta rơi vào một tranh luận với người Tin Lành, chúng ta không bị lạc lối, bởi vì người Tin Lành họ cũng dùng những ý niệm này, nhưng với một ý nghĩa hoàn toàn khác người Công Giáo chúng ta.
Đức tin là gì? Đức tin là một sự quy thuận của lý trí đối với các chân lý được Thiên Chúa mạc khải và được Giáo Hội truyền dạy phải tin cách không sai lầm. Hành động tin là một hành động tự phát, bắt nguồn từ lý trí suy đoán, nhờ đó chúng ta tin tất cả những điều Thiên Chúa mạc khải, không dựa trên chân lý nội tại được quan niệm bởi lý trí nhưng dựa trên uy quyền của chính Thiên Chúa là Đấng Mạc Khải, Đấng không bao giờ lừa dối và không thể bị lừa dối. Hành động tin này tự nó không làm cho con người nên công chính nhưng đưa dẫn con người đến với sự công chính hoá.[1]
Công chính hoá là gì? Công chính hoá là việc được làm cho nên công chính, theo đó, linh hồn được đưa vào tình trạng công chính qua một sự thông ban ơn thánh hoá và bác ái siêu nhiên vào trong linh hồn, tạo ra một sự tái sinh thiêng liêng thực sự và làm cho con người được tham dự vào bản tính Thiên Chúa (2Pr 1,4), được làm nghĩa tử của Thiên Chúa (Ep 1,5), được làm người thừa kế Nước Thiên Chúa (Rm 8,17).
Tình trạng công chính hoá này được bảo tồn bởi sự tuân giữ lề luật của Thiên Chúa (Mt 19,17); bị mất bởi một tội nặng đã phạm (Dt 10,26); và đượcphục hồi bởi việc sám hối và xưng tội (1Ga 1,9; Ga 20,21-23). Vì thế, chính ơn thánh hoá làm cho người nên công chính và cứu chuộc con người.
Vai trò của việc lành là gì? Việc lành hay việc tốt, tuy không đưa con người vào trong tình trạng công chính, nhưng góp phần làm cho một người đã ở trong tình trạng ân sủng được công chính hơn và thánh hoá hơn[2], như chúng ta đọc thấy trong Sách Khải Huyền: “kẻ bất lương cứ làm điều bất lương nữa đi, kẻ ô uế cứ ra ô uế nữa đi, người công chính hãy thi hành công chính nữa đi. Này ta sắp đến và đem theo phần thưởng để trả cho mỗi người theo việc họ đã làm.” (Kh 22,11-12).
Trên đây là cách hiểu về đức tin và ơn công chính hoá mà Giáo Hội Mẹ chúng ta đã dạy. Với những ý niệm đúng đắn ấy trong đầu, chúng ta cùng phân tích những sai lầm của Luther. Xin được tóm tắt và trình bày cách bình dân nhất có thể để bạn đọc dễ hiểu.
Sai lầm về ơn cứu độ.
Luther cho rằng, con người được cứu độchỉ nhờ bởi đức tin mà thôi (salvation by faith alone). Đây là sai lầm tiêu biểu của Luther. Sai lầm này bắt nguồn từ một cách hiểu về đức tin hoàn toàn khác với cách mà mà Mẹ Giáo Hội đã dạy. Theo Luther, đức tin không phải là một sự quy thuận của lý trí đối với các chân lý được Thiên Chúa mạc khải, nhưng là một sự tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Quan niệm đức tin này của Luther không dựa trên lý trí (intellect) nhưng dựa trên ý chí (will) và do vậy, đức tin ấy là một điều gì đó thuộc về đức cậy (hope) chứ không phải là đức tin. Linh mục, Reginald Garrigou Lagrange, một chuyên gia về thần học Thánh Tôma, viết: “Người Tin Lành quả quyết rằng, đức tin thuộc về ý chí và điều này phù hợp với định nghĩa sai lầm của họ về đức tin rằng, đó là một sự tín thác mạnh mẽ vào lòng thương xót của Chúa để được ơn tha thứ tội lỗi. Sự tín thác đồng nghĩa với hy vọng và hoàn toàn thuộc về ý chí.” Quan niệm đức tin của Luther hoàn toàn trái nghịch với quan niệm đức của Công Giáo. Đức tin của Luther đồng nghĩa với sự tín thác vào lòng thương xót của Chúa, nó thuộc về phạm trù tình cảm và ý chí. Còn đức tin Công Giáo là một sự quy thuận của lý trí đối với các chân lý được Thiên Chúa mạc khải, và nó thuộc về lãnh vực của trí tuệ.
Đối với Công Giáo, con người được cứu độ không phải chỉ do bởi đức tin mà thôi, nhưng do bởi đức tin đi kèm với việc làm: tin và thực hành lề luật Chúa truyền dạy. Đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc 2,17).
Sai lầm về công chính hoá.
Luther cho rằng, linh hồn người công chính không thực sự được làm cho nên công chính và tội của họ cũng không thực sự được tẩy xoá. Luther dạy rằng, hành động công chính hoá bao gồm một sự quy trách ngoại tại sự công bình của Đức Kitô, nhờ đó kẻ tin được Thiên Chúa coi là công chính, chứ không phải là một sự thông ban nội tại của ân sủng vào trong linh hồn con người và nhờ đó, họ được tẩy xoá tội lỗi và được nên công chính. Nói cách bình dân, Luther cho rằng con người không thật sự được tẩy xoá tội lỗi và được làm cho nên công chính, họ chỉ được Thiên Chúa làm ngơ bỏ qua cho tội lỗi và được coi là công chính mà thôi. Luther đã dùng hình ảnh “kinh điển” là “đống phân được tuyết bao phủ” để minh hoạ cho giáo lý xa lạ về công chính hoá của mình. Đống phân được tuyết bao phủ trắng tinh đẹp đẽ bên ngoài, nhưng bên trong nó vẫn nguyên là đống phân. Tương tự như thế, linh hồn người công chính chỉ đơn giản là được bao bọc bởi sự công bình của Đức Kitô mà thôi, chứ bên trong nó vẫn là một kẻ tội lỗi, tội lỗi của nó không thể được tẩy xoá.
Lý luận như thế của Luther thật thô thiển và sai lầm! Đối với giáo lý Công Giáo, con người được nên công chính là vì tội lỗi con người thật sự được tẩy xoá, linh hồn con người thật sự được tái sinh và trở nên một tạo vật mới, và được làm cho nên công chính do ân sủng của Đức Kitô.
Sai lầm về ân sủng.
Luther dạy rằng, ân sủng chỉ là một sự sủng ái (favor), hay là thiện chí (good will) của Thiên Chúa đối với con người mà thôi[3], chứ không phải là sự sống siêu nhiên được thông ban vào trong linh hồn của con người để biến đổi con người từ bên trong. Vì quan niệm sai lầm như thế, nên Luther cho rằng, chỉ cần tín thác vào công nghiệp của Đức Kitô thì con người sẽ được Thiên Chúa đoái nhìn sủng ái, tội lỗi của họ sẽ được che phủ, và họ sẽ được cứu độ bất kể họ sẽ phạm bao nhiêu tội. Nói cách dễ hiểu, Luther dạy rằng kẻ được Thiên Chúa sủng ái thì dù phạm tội thế nào cũng vẫn sẽ được cứu độ; còn kẻ không được sủng ái thì dù cố gắng đến đâu cũng vô ích và sẽ không thể được cứu.
Để chống lại thứ giáo lý sai lạc này của Luther, Công Đồng Trento đã dạy rằng:Bất cứ ai nói rằng con người được nên công chính không phải do ân sủng và tình yêu mà Chúa Thánh Thần tuổn đổ vào lòng họ và ở lại trong họ, nhưng chỉ do sự sủng ái của Thiên Chúa mà thôi, thì bị vạ tuyệt thông.[4]
Sai lầm về bản tính con người.
Luther dạy rằng, do tội nguyên tổ, bản tính con người đã hoàn toàn bị hư hỏng và không còn khả năng để tái sinh hay thánh hoá. Luther viết: “Bản tính con người đã bị hư hỏng đến mức không bao giờ có thể được tái sinh và tội lỗi sẽ mãi mãi ở trong linh hồn con người, kể cả người công chính. Ân sủng quyền năng của Thiên Chúa không tẩy sạch tội lỗi con người. Đấng Toàn Năng không nhìn đến tội của con người. Ngài che phủ nó bằng công nghiệp của Đức Kitô và không quy trách tội lỗi của người đặt niềm tin vào những đau khổ của Đấng Cứu Thế.”[5]
Vì cho rằng bản tính con người đã hoàn toàn hư hỏng, Luther đi đến chỗ chối bỏ ý chí tự do của con người. Vì chối bỏ ý chí tự do nên Luther cũng chối bỏ trách nhiệm luân lý mà con người phải chịu cho hành động của mình. Giống như loài vật, không có ý chí tự do, nên con người không phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Luther quả quyết: “hoặc là Thiên Chúa hoặc là ma quỷ thống trị; con người không có tự do chọn lựa nên tuyệt đối không phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình. Ý chí tự do bị mất, nên con người không thể tuân giữ Bảng Thập Giới, nó không thể làm chủ đam mê của mình, nó phải phạm tội bao lâu còn sống…và kết luận đơn giản là: ai được cứu thì được cứu chứ hoàn toàn không do các việc lành của họ…”[6]
Vì cho rằng bản tính con người đã hoàn toàn hư hỏng và không còn khả năng làm điều tốt, Luther chối bỏ luôn sự cần thiết của các việc lành (Mt 25,31-46; Gc 2,24) và cũng chối bỏ luôn sự cần thiết của việc tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa. Luther khẳng định rằng, để được cứu độ thì không cần phải tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa; điều duy nhất cần, đó là sự tín thác (trust) vào Đức Kitô. Đây là lời của Luther: “Thiên Chúa chỉ đòi buộc bạn tuyên xưng đức tin. Mọi chuyện khác Ngài để mặc bạn tự do, làm bất cứ điều gì bạn muốn mà chẳng nguy hại gì cho lương tâm của bạn; bao lâu Ngài muốn, sẽ chẳng có gì khác biệt nếu bạn bỏ vợ, chạy chốn khỏi ông chủ, hay thoái thác mọi bổn phận. Có là gì đối Thiên Chúa nếu bạn làm hay không làm những điều như thế?”[7].
Tắt một lời, Luther đã phủ nhận khả năng bản tính con người có thể được tái sinh và thánh hoá, đã chối bỏ tự do và phủ nhận trách nhiệm luân lý của con người, phủ nhận sự cần thiết của việc lành và sự cần thiết phải tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa.
Sai lầm về tình thương của Thiên Chúa.
Luther đã có một quan niệm hoàn toàn sai lầm và lệch lạc về tình thương của Thiên Chúa (God’s Mercy) đến mức cho rằng, con người vẫn nhận dược tình thương của Thiên Chúa mà không cần sám hối và từ bỏ tội lỗi! Luther dạy rằng, tội lỗi không chia cắt con người khỏi Thiên Chúa, bất kể nó nặng nề và thường xuyên lỗi phạm đến đâu. Luther viết: “trong cuộc đời này, chúng ta phải phạm tội. Thật là phải lẽ, nhờ tình thương của Thiên Chúa, chúng ta biết Chiên Thiên Chúa Đấng xoá bỏ tội trần gian. Tội lỗi sẽ không tách chúng ta khỏi Ngài cho dù mỗi ngày chúng ta phạm cả ngàn tội sát nhân hay cả ngàn tội ngoại tình đi nữa.[8] Về lề luật của Thiên Chúa, Luther viết: “hãy để người Kitô biết rằng, chẳng có vấn đề gì việc bạn có giữ luật hay không; vâng, bạn có thể làm điều bị cấm hoặc không làm điều được yêu cầu, chẳng có gì là tội”.[9]
Quan niệm sai lạc về tình thương của Luther là hoàn toàn đối nghịch với giáo lý của Chúa và Giáo Hội. Chúa Giêsu dạy: muốn được sự sống đời đời, hãy tuân giữ các giới răn (Mt 19,16-22). Thánh Gioan nói: Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà không tuân giữ các giới răn của Người thì đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi kẻ ấy (1Ga 2,4).
Sai lầm về lương tâm và lề luật của Thiên Chúa.
Luther không chỉ mê muội và lầm lạc trong cách hiểu về lương tâm và lề luật của Thiên Chúa, mà còn phỉ báng và xúc phạm nặng nề đến chúng nữa. Luther coi lương tâm là “tiếng nói của ma quỷ” và lề luật của Chúa là “trò doạ dẫm của ma quỷ”. Vì thế, Luther quả quyết, phải loại bỏ Mười Điều Răn khỏi lòng trí con người, những kẻ bị bách hại và quyến rũ bởi ma quỷ. Chính Luther đã thú nhận rằng, ông mang trong lòng mình một tiếng nói nhắc nhở ông về một đời sống xấu xa, nhưng ông gọi đó là “tiếng nói của ma quỷ”, kẻ muốn trêu trọc con người, và nó xuất hiện dưới bộ dạng của Đức Kitô và biến đổi thành một thiên thần ánh sáng để hù doạ con người bằng lề luật.[10]
Để chống lại “tiếng nói của ma quỷ” và những “trò doạ dẫm”của nó, Luther đã tuyên bố câu nói “bất hủ”: hãy phạm tội và phạm tội mạnh mẽ hơn![11] Tự hào về tội lỗi là cách tước bỏ khí giới khỏi tay ma quỷ![12] Luther dạy người ta rằng, nếu ai thấy mình bị ám ảnh bởi ma quỷ, hãy phạm tội để thể hiện sự thù ghét và bất chấp nó, có như vậy, nó mới không có cơ hội để quấy rày lương tâm ta.
Tư tưởng sai lầm đến điên dại này của Luther bắt nguồn từ “nguỵ tin mừng” mà ông rao giảng. Nguỵ Tin Mừng của Luther phân tách sự tín thác vào Đức Kitô với việc tuân giữ giáo huấn của Ngài. Luther đã bóp méo sự công bình của Thiên Chúa và bất cứ những gì mà người ta tìm cách để áp đặt giới răn của Thiên Chúa lên con người.
Trên đây là lược tóm một số lai lầm mang tính đầu xỏ, làm nền tảng cho vô số sai lầm và tội lỗi khác của Luther như chối bỏ các Bí Tích trong đó có BT Thánh Thể, BT Giải Tội và BT Truyền Chức, phủ nhận tín điều Đức Mẹ Đồng Trinh, phủ nhận sự tồn tại của luyện ngục, bảo vệ quyền tuỳ tiện giải thích thánh kinh, phủ nhận địa vị và quyền của Giáo Hoàng…và còn biết bao những lời nói lộng ngôn phạm thượng khác, xúc phạm đến Đức Mẹ, Môse, các thánh và các ĐGH, mà nếu trích ra sẽ chỉ thêm đau lòng.
Trước những tội lỗi và cố chấp sai lầm nghiêm trọng như vậy của Luther, Giáo Hội đã làm gì? Thưa, Giáo Hội đã kết án các sai lầm ấy và ra vạ tuyệt thông cho Luther.
Thật vậy, ngày 3 tháng 1 năm 1521, qua Sắc Lệnh DECET ROMANUM PONTIFICUM, Đức GH Leo X đã phạt vạ tuyệt thông Luther và tất cả những người theo ông ta.xem nguồn
Sắc lệnh có đoạn viết: “…chúng tôi phải đau buồn mà nói rằng, Luther, kẻ nô lệ cho một đầu óc bệnh hoạn, đã ngông cuồng viết và rao giảng những điều tồi tệ chống lại chúng tôi, Toà Thánh và đức tin Công Giáo, đồng thời dẫn dắt người khác làm theo như thế.
Nay chúng tôi tuyên bố Luther là kẻ lạc giáo, cũng như bất cứ ai, dù quyền hành và địa vị là gì, dám coi thường phần rỗi của mình để công khai đi theo bè lạc giáo độc hại của Luther, cũng như bất cứ ai công khai ủng hộ, tư vấn, cổ võ và khuyến khích Luther tiếp tục bất tuân và ngoan cố, hoặc những ai ngăn cản việc phổ biến sắc lệnh này của chúng tôi, thì đều phải chịu chung những hình phạt và đích thị bị coi là những kẻ lạc giáo và các tín hữu buộc phải xa lánh, như Thánh Tông Đồ đã nói (Tt 3,10-11).
Sắc lệnh viết tiếp: “mục đích của chúng tôi là, những người này phải được xếp cùng chung hàng với Luther cũng như với những kẻ lạc giáo bị chúc dữ khác và những kẻ bị tuyệt thông, và ngay cả những người tự đặt mình vào sự cố chấp để phạm tội như Luther, cũng như tất cả nhưng ai mang danh phái Luther –Lutheran- thì cũng đều phải chịu chung những hình phạt với Luther.”
Sắc lệnh này được thông qua để chống lại Luther và tất cả những ai ngoan cố đi theo chủ ý suy đồi, đáng trừng phạt của ông ta, tất cả những ai bênh vực bảo vệ sự lầm lạc của Luther thì cũng chung số phận với ông ta. Tất cả các nhà thờ, dòng tu, tu viện, trường học và cơ sở Công Giáo đều phải xa tránh, không tiếp xúc và cộng tác với Luther và bè rối của ông dưới bất cứ hình thức nào.
Vì vấn đề thông tin thời đó còn hạn chế, Đức Leo X truyền dạy rằng Sắc Lệnh kết án Luther phải được niêm iết tại công khai tại cửa các nhà thờ chính toà cũng như các nhà thờ khác trên khắp nước Đức và khắp mọi nơi. Dù là bản sắc lệnh copy thì cũng có giá trị và hiệu lực như bản gốc.
Kết thúc Sắc Lệnh, Đức Leo X tuyên bố: không một ai được phép can thiệp hay vi phạm sắc lệnh này. Bất cứ ai dám vi phạm, hãy biết rằng, kẻ ấy sẽ phải chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa Toàn Năng và của hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô.
KẾT LUẬN
Qua những điều vừa trình bày ở trên, ta thấy được rằng:
Sự thật là Luther đã sai lầm và sai lầm ghê gớm đến mức suy đồi bệnh hoạn như ngôn từ trong Sắc Lệnh của Đức Leo X đã nói. Những sai lầm này do Luther hoàn toàn ý thức và chủ ý rao giảng nhằm chống lại Thiên Chúa, chống lại công trình cứu chuộc của Đức Kitô và Hội Thánh của Người. Chính Luther đã thú nhận rằng: “không có một tôn giáo nào trên thế giới dạy một thứ giáo lý về công chính hoá như thế này: Chính tôi, bề ngoài rao giảng nó, nhưng bên trong thật khó để tin nó.”(Franca, The Church, The Reformation, and Civilization, 158)
Sự thật là Luther chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ có cơ hội, để rút lại những sai lầm của ông. Những hậu duệ của Luther tràn lan ngày nay cũng chưa bao giờ có ý định sẽ sửa sai cho “ông tổ sai lầm của mình.” Luther đã xúc phạm và gây ra đau khổ lớn lao cho Đức Kitô và Giáo Hội, Thân Thê Màu Nhiệm của Ngài. Vết thương sự chia cắt mà Luther gây ra cho Thân Thể Màu Nhiệm của Đức Kitô đến nay vẫn chưa được hàn gắn và chữa lành. Và sự hàn gắn và chữa lành đích thực đó là, các bè rối và hậu duệ của Luther phải thú nhận và từ bỏ các sai lầm của Luther để trở về với Giáo Hội.
Sự thật là Luther và những người đi theo ông ta đã bị Giáo Hội kết án lạc đạo và ra vạ tuyệt thông. Luther đã sửa đổi Kinh Thánh và khai sinh ra một bè rối lạc đạo – Lutheran heretical sect. Bè rối ấy có đức tin mà không cần tuân giữ luật Chúa; có hàng giáo sĩ mà không cần chức linh mục; có thờ phượng mà không cần thánh lễ; có ơn tha tội mà không cần bí tích giải tội; có kinh thánh và không cần ơn linh hứng…
Sự thật là sắc lệnh kết án và vạ tuyệt thông dành Luther và bè rối của ông ta, chưa bao giờ bị rút lại và nó vẫn còn nguyên giá trị và hiệu lực pháp lý. Bất cứ ai dám nguỵ biện, bào chữa, và ủng hộ Luther, hãy nhớ lời cảnh báo của Đức Leo X rằng: “kẻ ấy sẽ phải chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa Toàn Năng và của hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô.”
Đó là một vài sự thật được rút ra sau khi nhắc lại sai lầm của Luther và lời dạy của Giáo Hội. Nếu đó còn là những sự thật thì những gì chúng ta đang chứng kiến hôm nay trong đời sống Giáo Hội chỉ có thể được gọi bằng cái tên là “sự giả dối”.
Sẽ là giả dối khi bè rối của Luther vốn bị kết án lạc giáo và vạ tuyệt thông từ suốt mấy thể kỷ nay, bây giờ được nhìn nhận là “giáo hội”, mà còn là “giáo hội anh em chị em” nữa cơ. Xin lỗi phải nói rằng, trong Giáo Hội chắc chắn là không có chuyện “để lâu cứt trâu hoá bùn”. Sai lầm và tội của Luther vẫn còn nguyên và án vạ dành cho Luther cũng vẫn còn đó chứ chưa bao giờ được rút lại. Vậy tại sao có sự biến chuyển từ bè rối thành “giáo hội”? Đó là kết quả của “đối thoại đại kết-ecumenical dialogue”. Nhờ đại kết-ecumenism, người ta nhận ra rằng giữa Giáo Hội và bè rối Luther có nhiều hiểu lầm trong quá khứ, và những hiểu lầm đó nay đã được khai thông và bỏ qua. Thật sự có chuyện đó sao? Liệu có chuyện con người thời nay hiểu về Luther hơn là Giáo Hội và các ĐGH đã sống cùng thời với Luther chăng?
Sẽ là giả dối nếu kẻ lạc giáo phản loạn như Luther mà nay lại trở thành chứng nhân anh hùng, thậm chí coi như thánh nhân. Tất cả những ai cố gắng dùng tài năng của mình để biện hộ và bào chữa cho Luther, coi chừng phải chịu chung án vạ với Luther như Đức Leo X đã ngăm đe cảnh báo trong sắc lệnh đã nói trên.
Sẽ là giả dối nếu coi công cuộc phá hoại Giáo Hội của Luther xưa kia là một ơn lành và là một “sự kiện của Chúa Thánh Thần!”. Đức HY. Muller, Cựu Bộ Trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, mới đây đã phản bác lại quan điểm lãng mạn quỷ quyệt ấy rằng: cuộc cách mạng của Luther là chống lại Chúa Thánh Thần. xem nguồn
Sẽ là giả dối và kệch cỡm hết sức khi Bưu Điện Vatican sẽ cho phát hành tem với hình của Luther và Melanchthon, hai đại lạc giáo, đang quỳ dưới chân thánh giá. Luther quỳ và ôm cuốn kinh thánh, còn Melanchthon quỳ với hai tay đang bê quyển “tự thú Augsburg” – cuốn cẩm nang cách mạng phá hoại của bè rối Luther. Chúng ta đã quá quen với hình ảnh Đức Mẹ và Thánh Gioan Tông Đồ ở dưới chân thánh giá Chúa Giêsu, nay người ta thế hai đại lạc giáo Luther và Melanchthon vào chỗ của Đức Mẹ và Thánh Gioan Tông Đồ thì quả thật là quá mỉa mai báng bổ cho lương tâm Công Giáo chân chính.
Sẽ là giả dối nếu thừa nhận tất cả những tốt lành và hoa trái mà người ta đang cố tạo ra từ công cuộc phá hoại của Luther. Bởi nếu đúng như thế thì có nghĩa là người ta đang gián tiếp coi tất cả những phán quyết và án vạ mà Giáo Hội dành cho Luther và bè rối của ông trước đây là sai lầm. Phải khẳng định là Giáo Hội không thể sai lầm trong những phán quyết về Luther bởi đó thuộc phạm trù đức tin và luân lý.
Sẽ là giả dối khi bám vào lý luận rằng, những gì liên kết chúng ta (Công Giáo và các bè lạc giáo) lại với nhau thì lớn hơn những gì chia cắt chúng ta. Những gì đó hàm ý là những vấn đề liên quan đến tín lý và đức tin. Người ta cho rằng, nhiều hiểu lầm đã được vượt qua và chỉ còn một chút khác biệt mà thôi. Xin thưa rằng, bao lâu những bè lạc giáo không trở về với Mẹ Giáo Hội Công Giáo để tuyên xưng trọn vẹn cùng một đức tin chân thật như Mẹ Giáo Hội, thì họ vẫn là những bè lạc giáo không hơn không kém. Xin được nhắc lại lời dạy của Đức GH Leo XIII: “Như những gì Thánh Tông Đồ Gia-cô-bê phán xét về hậu quả của một lỗi phạm luân lý, điều tương tự cũng được áp dụng cho một sai lạc trong đức tin: phàm ai giữ cả lề luật mà lại sa ngã về một điều, thì nó cũng mắc vạ về hết mọi điều (Gc 2,10)…cho nên ai phủ nhận dù chỉ một điều trong chân lý mạc khải thần linh thì kể là chối bỏ toàn bộ đức tin, vì người đó khước từ tôn kính Thiên Chúa là chân lý tối thượng và là nguyên nhân mô thể của đức tin.” (Thông Điệp về Sự Hiệp Nhất của Giáo Hội -Satis Cognitum- ngày 29/6/1896. Số 9). Lời dạy này của Đức Leo XIII đã bác bỏ kiểu lập luận rằng “những gì liên kết chúng ta lại thì lớn hơn những gì chia cắt chúng ta”.
Những giả dối trên bởi đâu mà ra? Thưa, đó là bởi đại kết. Đại kết thực chất là một hình thức ngoại giao tôn giáo. Bởi thế, tất cả những gì mà người ta trao đổi thông qua cái gọi là “đối thoại đại kết” chỉ là ngôn ngữ của ngoại giao tôn giáo. Thứ ngôn ngữ ấy mang tính nghi thức xã giao là chính chứ không có chức năng truyền thông sự thật. Chuyện lạ nữa là, càng đối thoại đại kết nhiều, thì chúng ta càng nhượng bộ và đánh mất mình hơn, không thấy các bè phái ly giáo lạc giáo thay đổi cái gì! Vậy mà chúng ta vẫn cứ ham đối thoại! Thật khó hiểu về đại kết! Phải chăng đó là biểu hiện của một Apostasy mà Chúa, Đức Mẹ và các Tông Đồ đã cảnh báo? (xem thêm bài 15 và 29).
Để kết thúc, Thời Giờ Đã Mãn xin một lần nữa góp thêm tiếng kêu lên rằng, chúng ta đang sống trong thời buổi “vàng thau lẫn lộn”, sự thật và giả dối đang bủa vây chúng ta. Nhiều tiếng nói, kể cả các đấng bậc, đang gióng lên cảnh báo cuộc khủng hoảng đức tin lớn lao, hơn cả cuộc đại khủng hoảng Ario hồi thế kỷ thứ tư, đang diễn ra trong Giáo Hội. Chúng ta có để ý và thấy một chút giật mình để thức tỉnh mình hay không? Hãy cầu nguyện, cầu nguyện và cầu nguyện không ngừng cho Giáo Hội, cho các đấng bậc và cho bản thân mình.
Lạy Thánh Thần Chân Lý, xin soi sáng chúng con! Amen!
[1] Theo CĐ Vatican I, phiên họp thứ 3, chương 3.
[2] Tổng Luận Thần Học Thánh Toma Quyển I-II, Câu 100 a.12 (ST I-II, q.100 a. 12)
[3] Martin Luther, LW 32:227
[4] CĐ Trento, phiên họp thứ VI, điều 11.
[5] Patrick O’Hare, The Facts About Luther (New York: Fredrick Pustet, Inc, 1916), 166.
[6] O’Hare, The Facts About Luther, 274–75.
[7] Leonel. Franca SJ., The Church, The Reformation, and Civilization, Third (Rio de Janeio: Editora Civilizacao Brasileira, n.d.), 466.
[8] Franca, The Church, The Reformation, and Civilization, 439.
[9] O’Hare, The Facts About Luther, 122.
[10] Wittenberg V, 321, 321B.
[11] Franca, The Church, The Reformation, and Civilization, 439.
[12] Wittenberg V,281 B
Nguồn Thời Giờ Đã Mãn