Thứ Sáu, 16 tháng 11, 2018

Lễ kính THÁNH MARGARITA SCOTLAND & THÁNH GERTRUĐÊ ĐỒNG TRINH 16/11


THÁNH MARGARITA SCOTLAND,


Tin Mừng thánh Mátthêu 25,1-13 
Ngày 16/11/2018
1 "Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể.2 Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn.3 Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo.4 Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.5 Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả.6 Nửa đêm, có tiếng la lên: "Chú rể kia rồi, ra đón đi! "7 Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn.8 Các cô dại nói với các cô khôn rằng: "Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi! "9 Các cô khôn đáp: "Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn."10 Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại.11 Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: "Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với! "12 Nhưng Người đáp: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả! "13 Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.

 1"Then  the kingdom of heaven will be like ten virgins who took their lamps and went out to meet the bridegroom.
2  Five of them were foolish and five were wise.
3 The foolish ones, when taking their lamps, brought no oil with them,4 but the wise brought flasks of oil with their lamps.
5 Since the bridegroom was long delayed, they all became drowsy and fell asleep.
6 At midnight, there was a cry, 'Behold, the bridegroom! Come out to meet him!'7 Then all those virgins got up and trimmed their lamps.
 
8 The foolish ones said to the wise, 'Give us some of your oil, for our lamps are going out.'9 But the wise ones replied, 'No, for there may not be enough for us and you. Go instead to the merchants and buy some for yourselves.'10 While they went off to buy it, the bridegroom came and those who were ready went into the wedding feast with him. Then the door was locked.
11  Afterwards the other virgins came and said, 'Lord, Lord, open the door for us!'12 But he said in reply, 'Amen, I say to you, I do not know you.'13 Therefore, stay awake, 5 for you know neither the day nor the hour.
-------------
Hạnh Các Thánh
Ngày 16 tháng 11

THÁNH MAGARITA HOÀNG HẬU XỨ SCỐTLEN 
THÁNH GERTRUĐÊ ĐỒNG TRINH




THÁNH MAGARITA HOÀNG HẬU XỨ SCỐTLEN
(+1093)

“Duyên sắc nở trên miệng người. Vì Thiên Chúa đã chúc phúc cho người đời đời và trong huy hoàng mỹ lệ, người vui sướng tiến lên và thống trị”.

Phải chăng Giáo hội còn lời nào đẹp hơn để ca khen các nữ tôi tớ của Thiên Chúa, và cách riêng thánh nữ Magarita mà chúng ta đọc truyện hôm nay!

Tuy ra đời giữa lúc gia đình gặp cảnh lưu vong, Magarita vẫn được may mắn sống những ngày thơ ấu êm đềm và hưởng thụ một nền giáo dục chu đáo về hai phương diện trí dục và đức dục.

Năm 1054, lúc đó Magarita lên 10 tuổi, vua Canút băng hà, gia đình Magarita trở về nước. Nhưng không được mấy năm thì ông cậu ngài là thánh Êđua qua đời và những vụ sát hại lại lan tràn. Nhiều cuộc tranh chấp giữa Harold và Guillaume Normandi xảy ra, bắt buộc gia đình thánh nữ lại phải di cư sang miền Scốtlen. Trên đường đi, cha ngài từ trần, phủ lên đầu thánh nữ tấm khăn tang đầy đau xót.

Sang tới Scốtlen, cả gia đình Magarita được vua Malcolm III đón tiếp nồng hậu. Sự giúp đỡ của nhà vua và nhân dân bản xứ đã băng bó vết thương của cả gia đình trong cảnh lưu lạc… Hơn thế, quãng năm 1070, nhà vua còn ngỏ ý xin cưới Magarita. Tâm đầu ý hợp, một lễ “cưới quốc gia” được cử hành rất trọng thể tại Dunfermline trong ba ngày. Dân chúng Scốtlen hân hoan đón tiếp tân Hoàng hậu vừa có nhan sắc lại vừa có đức hạnh.

Trong cuộc đời mới, Magarita hằng tâm niệm sẽ chu toàn bổn phận của một người vợ, người mẹ và Hoàng hậu hầu thánh hóa bản thân và làm gương sáng cho mọi người. Quả thế, nếu trước khi lập gia đình, thánh Magarita nổi tiếng là một thiếu nữ thánh thiện, duyên dáng trong đoan trang, dịu hiền trong bác ái, thì từ khi lãnh sứ mệnh mới, ngài càng tỏ ra xứng đáng với ơn Chúa và sự mong đợi của mọi người. Chép lịch sử triều vua Malcolm III, một sử gia đã viết: “Xứ Scốtlen cường thịnh nhờ có quân vương Malcolm III, tài khéo và chính trực, nhất là nhờ ở một bà Hoàng hậu, kể được là duy nhất trong lịch sử, với nhiều nhân đức cao cả. Chính ngài đã giúp đỡ nhà vua, làm gương cho các quan và lôi cuốn toàn dân tiến vào con đường ánh sáng”. Thực vậy, nhờ sự khuyên bảo của Hoàng hậu, nhà vua không bao giờ dám chiều theo khuynh hướng xấu hay làm một điều gì tai ác. Cũng vì kính trọng văn hóa và sự khôn ngoan của Hoàng hậu, nhà vua còn để toàn quyền cho Hoàng hậu trong việc hoạch định chương trình giáo huấn dân chúng Scốtlen theo tinh thần Phúc âm. Hoàng hậu Magarita vì vậy đã nỗ lực gây tinh thần đạo đức cho thần dân. Nhờ ngài, số giáo dân rước lễ mùa Phục sinh đã tăng lên gấp bội, và nhiều gia đình rối được điều chỉnh lại cho hợp thức. Thánh nữ còn tập cho dân giữ mùa chay ngay từ ngày lễ tro, đúng như thói quen của Giáo hội. Sau cùng, được sự thoả thuận của nhà vua, Hoàng hậu đã cho xây cất một thánh đường trang hoàng rất lộng lẫy dâng kính Chúa Ba Ngôi.

Riêng trong hoàng cung thánh nữ đảm đương hết mọi việc. Chính tay ngài đan hoặc may cắt quần áo cho vua. Hiểu tính vua, ngài sắm sửa các đồ trang hoàng trong nhà khá lộng lẫy. Điểm chú ý là ở các cửa ra vào trong hoàng cung, ngài đều treo ảnh Thánh Giá bằng vàng hay bằng ngọc. Gắn liền ở dưới những lời than thở rất vắn tắt trích trong Thánh vịnh hay Thánh thư. Phụng dưỡng chồng và chăm sóc giáo dục các con, đó là hai việc thánh nữ lo hoàn tất và thánh hóa hơn cả. Ngài thường nói: “Chắc Chúa sẽ không bằng lòng khi thấy tôi làm những việc khác, đang khi sao nhãng bổn phận làm vợ và làm mẹ trong gia đình”. Ngài sinh hạ được sáu hoàng tử và ba công chúa. Tất cả đều theo gương mẹ sống đời đạo đức tốt lành. Hoàng tử thứ sáu tên là Đavít, sau được dân tôn kính như một vị thánh. Riêng công chúa Edith, lớn lên đẹp duyên với Hoàng đế nước Anh và về sau được phong thánh mang danh hiệu thánh nữ Mathilđa.

Thực ra, để thu lượm những kết quả trên, Hoàng hậu Magarita phải có một đời sống nội tâm phong phú và bác ái dồi dào. Viết về đời sống của ngài, một vị quan trong triều đã ghi như sau: “Mỗi buổi sáng, sau khi đã rửa chân cho sáu người nghèo, dọn bữa cho chín trẻ mồ côi, ngài cùng với mấy nữ tỳ đi thăm viếng, an ủi và ban đồ ăn hay quần áo cho các bệnh nhân và người nghèo. Chính những người nghèo khó bệnh tật cần được nghe lời nói an ủi, họ được nhìn thấy thái độ và nét mặt thông cảm của ngài cũng đủ để tâm hồn hoan lạc. Suốt ngày làm những công việc bác ái như thế, đêm đến ngài lại thức cầu nguyện. Đêm đêm, sau mấy giờ nghỉ ngơi, thánh nữ chỗi dậy đọc các kinh ban mai về lễ Chúa Ba Ngôi, lễ kính Thánh giá, lễ kính Đức Mẹ và kinh cầu cho các linh hồn luyện ngục. Trong mùa vọng và mùa chay, thánh nữ dự mỗi ngày hai ba lễ và rước lễ hằng ngày. Đời sống bác ái và đạo đức ấy đã đáng Chúa thưởng ban cho Hoàng hậu nhiều ơn cao quý đặc biệt như: biết trước việc sắp xảy đến. Ngài báo cho dân chúng biết ngày đau thương xảy đến cho tổ quốc: Quân vương Malcolm III sẽ bị tử trận cùng với Hoàng tử Eđua trong một cuộc viễn chinh. Chính ngài cũng biết trước ngày qua đời của mình, vì thế, thánh nữ lo dọn mình cách rất sốt sắng, chuẩn bị bước vào cửa trời.

Trong những ngày nằm trên giường bệnh, thánh Magarita chỉ nhận Mình Thánh Chúa làm của ăn và thuốc uống duy nhất. Ngài luôn tay giữ cây Thánh giá, hôn kính rất âu yếm và thành tín. Khi được tin nhà vua và con trai đầu lòng tử trận, thánh nữ cũng không tỏ vẻ buồn phiền, chỉ coi đó là ý Chúa Quan phòng muốn cho gia đình ngài mau được đoàn tụ trên trời. Với vẻ mặt vui mừng, ngài gượng dậy cùng với gia nhân cất kinh cảm tạ Thiên Chúa. Nhưng vừa đọc hết câu “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, xin giải thoát con”, ngài êm ái lịm đi trong tình yêu vĩnh cửu! Hôm ấy là ngày 16 tháng 11 năm 1093. Nét mặt ngài vẫn tự nhiên xinh đẹp như khi còn sinh thời.

Xác thánh nữ được mai táng tại nhà thờ Chúa Ba Ngôi thuộc tỉnh Dunfermline, bên cạnh mồ vua Malcolm III. Nối liền với hai phần mộ, người ta đặt một tấm bia bằng đá quí có khắc dòng chữ vắn tắt như sau: “Thánh Malcolm Vua và thánh Magarita Hoàng hậu, là cha mẹ dân Scốtlen, là con cái hiếu thảo của Giáo hội Chúa Kitô, và là tấm gương muôn đời cho những kẻ ở bậc đôi bạn”.

Lòng tôn kính vua Malcolm III và cách riêng thánh nữ Magarita bắt đầu từ đó. Thánh Magarita được tuyên phong hiển thánh ngày 21.9 năm 1250. Sau nhiều lần thay đổi dưới các triều Giáo Hoàng, lễ kính ngài được Đức Giáo Hoàng Innôcentê XII, năm 1693 định vào ngày 10.6 hằng năm. Đến năm 1673, Đức Giáo Hoàng Clêmentê X đặt thánh nữ làm quan thầy xứ Scốtlen theo như đơn xin của hội đồng Giám mục bản xứ.

Vinh dự thay và cũng nặng nề thay chức phận làm mẹ và làm vợ trong gia đình của người phụ nữ. Chớ gì các bà mẹ, các người làm vợ hãy biết noi gương thánh Magarita để chu toàn và thánh hóa bổn phận cao quí của mình đối với chồng con trong gia đình. Đó chính là sứ mệnh của người phụ nữ, là con đường Chúa muốn các bà bước theo để nên thánh vậy.


-------------------------------

* THÁNH GERTRUĐÊ ĐỒNG TRINH "

Cũng như thánh nữ Magarita Maria, thánh nữ Gertruđê là chiến sĩ rao giảng lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh nữ là người thứ nhất được Chúa tỏ Trái Tim cho vì cũng là người thứ nhất cổ động phong trào đền tạ Thánh Tâm Chúa.

Thánh nữ Gertruđê sinh vào một đêm sáng năm 1264, làng Hêlêben thuộc xứ Saxa. Trong miền quê nhỏ bé này, nào có ai biết sẽ có sự gì mới lạ, nhưng mấy chục năm sau khi thánh nữ qua đời, người ta mới nhận ra rằng, đêm hôm ấy là một đêm lịch sử khởi đầu cho một kỷ nguyên truyền bá lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh nữ như đã được Chúa kén chọn để thi hành sứ mệnh đó ngay từ lúc còn thơ bé. Lúc mới lên năm tuổi, Gertruđê đã được cha mẹ gửi vào học tại dòng chị em thánh Biển Đức. Nơi đây, Gertruđê đã làm cho các chị nữ tu phải bỡ ngỡ về trí thông minh và đời sống đạo đức của mình. Gertruđê đã tuân giữ luật dòng một cách hết sức anh hùng, nhất là đức vâng phục. Người ta còn kể lại, một buổi tối kia, trời trở bão, nhà cửa bị gió thổi trốc hết nóc, cột kèo ngả nghiêng như muốn đổ. Để thử đức vâng lời, mẹ bề trên bảo Gertruđê ra ôm một cây cột để giữ cho nhà khỏi đổ. Mặc dầu biết sức mạnh không có ăn nhằm gì với sức gió, nhưng vì vâng lời, Gertruđê cũng ra ôm chặt cây cột. Mãi gần sáng Mẹ bề trên mới sực nhớ rằng mình đã sai Gertruđê đi giữ cột, cho người ra kêu thì thấy Gertruđê rét run cầm cập, hai tay vẫn ôm cây cột.

Sẵn có trí thông minh và nhân đức, bề trên cho phép Gertruđê được học tiếng La tinh và khoa học phần đời. Nhưng vì quá ham mê học hành, nên Gertruđê sút kém đường nhân đức, không còn năng tưởng nhớ tới Chúa như trước nữa. Trước tình trạng đó, mẹ bề trên cũng không hay biết tâm hồn Gertruđê có gì thay đổi. Vì muốn chọn Gertruđê làm chiến sĩ tiền phong của tình yêu Thánh Tâm, nên Chúa Giêsu đã đích thân hiện đến cảnh cáo thánh nữ. Được Chúa quở trách, thánh nữ buồn phiền đau đớn vô cùng. Ngài xin Mẹ bề trên cho phép nghỉ các môn học khác, để chỉ chú tâm vào khoa học yêu mến Chúa mà thôi. Từ đây Gertruđê ngày đêm nghiền gẫm Kinh Thánh, học thần học và tìm hiểu đường lối tu đức.

Giai đoạn luyện lọc và tẩy rửa đã tạm xong. Khi Gertruđê 20 tuổi, Chúa Giêsu muốn dạy cho thánh nữ những bài học sống động mà không một cuốn sách nào ở trần gian có thể dạy được. Đó là bài học bao la của Trái Tim Chúa đối với loài người, mà loài người lại coi thường lòng thương yêu đó. Có lần thánh nữ đã chết ngất đi hồi lâu vì thấy Chúa cao cả quá, còn mình thì hèn hạ như phân bớn. Từ đấy thánh nữ luôn luôn sống dưới cái nhìn yêu thương của Chúa Giêsu. Từ việc ăn uống, ngủ nghỉ, đến những việc đạo đức hằng ngày, việc gì ngài cũng nhờ Chúa Giêsu đến cộng tác, y như thể Chúa Giêsu cùng ăn uống ngủ nghỉ với ngài vậy. Lúc ấy trong dòng có một nữ tu hết sức đạo đức tên là Mêtinđê đã được chứng kiến những cuộc xuất thần của thánh nữ Gertruđê. Một hôm khi Mêtinđê đang đọc kinh trong nhà thờ thì thấy Chúa Giêsu hiện ra sáng láng uy nghi, Gertruđê quỳ bên cạnh, đôi mắt dính lệ vào ánh hào quang, không động đậy, mắt cũng trở nên sáng láng. Rồi Gertruđê trở nên nhẹ nhàng cất mình lên khỏi mặt đất một lúc lâu. Trong khi đó, Mêtinđê nghe thấy Chúa Giêsu đàm thoại thân mật với Gertruđê: “Đó là cách yêu mến cha tốt nhất, dù ăn uống ngủ nghỉ, hay làm bất cứ một công việc gì, con cũng cứ nhớ đến Cha luôn, làm theo ý Cha và như thế, Cha sẽ làm thay cho con nhiều”. Từ đấy, càng ngày, Gertruđê càng coi sự sống của mình thuộc hẳn về Chúa Giêsu, và việc nào làm mà không dâng cho Chúa thì ngài lấy làm đau khổ vô cùng, coi mình như kẻ phản nghịch, như kẻ trộm cướp của Chúa vậy.

Thánh nữ có lòng tôn sùng phép Thánh Thể một cách hết sức nồng nàn. Một nửa ngày ngài làm việc để dọn mình chịu lễ, và một nửa ngày để cám ơn. Người ta còn viết lại rằng: Một hôm, khi sắp lên rước lễ, ngài thấy lòng mình lạnh lẽo khô khan, chưa biết dọn lòng làm sao cho xứng đáng thì ngài buồn rầu phàn nàn quá sức. Nhưng thánh nữ đã khiêm nhường trông cậy vào Chúa và lên chịu lễ như thường. Bỗng nhiên thánh nữ ngất trí và say sưa nhìn Chúa Giêsu đang cho xem những vẻ đẹp đẽ lộng lẫy của một linh hồn chịu lễ sốt sắng. Thánh nữ đã có lần thốt lên: “Ai lên bàn thánh rước Mình Thánh Chúa, mà lại hay nói hành bỏ vạ, không có lòng thống hối, thì cũng chẳng khác chi người tiếp đón một thượng khách mà lại giơ chân đấm đá người khách đó trước khi họ bước chân vào nhà”. Vì thế thánh nữ đã được Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần và giúp ngài chịu lễ cách sốt sắng thật.

Thuở ấy, Chúa Giêsu chưa có ý định bày tỏ Thánh Tâm Ngài cho nhân loại, nhưng nhiều lần Ngài đã nhắn nhủ Gertruđê hãy năng chạy đến ẩn mình trong Trái Tim Ngài; nhất là khi phải đau phiền. Một hôm bị ma quỷ cám dỗ, thánh nữ đọc kinh chia trí nhiều quá, ngài buồn rầu thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa, con làm việc như vậy nào được ích gì? Xin Chúa nâng đỡ con”. Bỗng nhiên Chúa Giêsu tỏ Thánh Tâm cho thánh nữ và nhắn nhủ: “Đây là Thánh Tâm Cha, các việc con làm, con hãy làm vì Thánh Tâm Cha, như thế, những việc lành thánh sẽ được Máu Cực Thánh Trái Tim Cha rửa cho sạch”. Thế là Gertruđê đã trở nên một chiến sĩ nhiệt thành cổ động cho lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu mà mãi bốn thế kỷ sau thánh nữ Magarita Maria mới truyền bá cho cả loài người. Sách chép hạnh thánh nữ kể lại rằng: Có lần Chúa Giêsu đã đổi Thánh Tâm Ngài cho thánh nữ và nhận lấy trái tim của thánh nữ để ngài được yêu mến và nhận biết lòng Chúa hơn. Lần khác, Chúa lại hiện ra và nói với thánh nữ Mêtinđê: “Không có nơi nào Cha thích ngự xuống bằng lòng thánh nữ Gertruđê”. Được nhìn thấy Thánh Tâm Chúa Giêsu, thánh Gertruđê thường run sợ vì loài người yêu Chúa quá ít. Vì thế, một hôm ngài nức nở than khóc: “Lạy Chúa, con biết làm gì để đáp lại lòng Chúa yêu con? Con bội bạc cùng Chúa quá nhiều, xin Chúa dạy con”. Lập tức thánh nữ được Chúa dạy bảo: “Hãy bỏ ý riêng mình và theo ý bề trên, đó là yên ủi Cha, Đấng đã bị quân dữ bắt sỉ nhục, hãy cáo tội lỗi mình với những người đại diện Cha, như thế con sẽ xoa dịu được những vết thương Cha đã chịu. Hãy thống hối, ăn năn cầu nguyện cho kẻ có tội và yêu mến Thánh Tâm Cha nhiều hơn, như thế con sẽ làm nhẹ bớt được phần nào gian khổ Cha đã chịu trong giờ hấp hối”. Những lời căn dặn ấy, Chúa đã truyền cho thánh nữ ghi chép lại để răn dạy cho loài người.

Người chiến sĩ của Thánh Tâm Chúa Giêsu đã đền đáp được phần nào tình thương hải hà của Chúa đối với nhân loại bằng cách yêu, yêu thật nhiều và làm cho nhiều người yêu mến phạt tạ Thánh Tâm. Ngày 15 tháng 11 năm 1307, thánh nữ đã vĩnh biệt cõi trần, về ẩn mình trong Thánh Tâm Chúa Giêsu muôn đời…

Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2018

Mừng Lễ kính Thánh Martino Porres Tu sĩ OP(1579-1639) Lễ kính ngày 3/11

THÁNH MARTINÔ PORRES(1579 – 1639)


Bạn thân của người nghèo khổ và của loài vật vô tri.


            Matinô Porres sinh ngày 09-12-1579 tại thành phố Lima, nước Peru, Nam Mỹ châu.  Trong sổ Rửa tội tại Lima còn ghi “Marinô, con trai người cha ẩn danh”.  Thật ra cha của cậu là Gioan Porres, một người gốc Tây Ban Nha, sau làm thị thưởng tại Panama.  Ông không nhận con khi thấy nó là con lai da mầu.  Do đó, suốt nhiều năm, Martinô phải sống cảnh nghèo với người mẹ, không hôn thú, bà Anna Velasquez, một phụ nữ da đen.  Tuy nhiên, xã hội Nam Mỹ “lai căng” thời đó chẳng những không làm cho cậu đau khổ, mà còn giúp cậu đạt tới đức khiêm hạ hơn, đây là đặc tính nổi bật nhất đời của cậu.

            Mẹ con cậu Martinô tuy nghèo, nhưng lại rộng lòng bác ái  với những người cùng cảnh ngộ.  Một hôm bà mẹ gọi hai anh em Martinô và Gioanna, trao cho mấy đồng xu và sai chúng ra chợ mua rau.  Bà đã cặn kẽ bảo em giữ tiền cẩn thận đi thẳng đến chợ, không nên nhìn hai bên đường.  Vì bà nghĩ nếu con mình thấy kẻ nghèo khó thì sẽ thương mà tặng cho họ những đồng tiền mẹ con đang cần cho bữa tối nay.  Hai  anh em vâng dạ và mau mắn ra đi.  Ðang đi, mắt cô em đã bắt gặp người ăn xin mặc đồ rách rưới bên kia đường.  Ý nghĩ là sẽ không nói, nhưng tự nhiên cô bé bật miệng kêu “Kìa!”  Thế là Martinô nhìn theo em.

            Nghĩ đến lời mẹ căn dặn, hai anh em đã cố gắng đi tiếp.  Những cậu lại nghĩ chắc mẹ cũng không nỡ để người hành khất này chết đói.  Thế là hai anh em quay lại bên người hành khất, cậu lấy tiền ra và nói: “Nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, ông hãy cầm lấy số tiền này!”  Ông nhận quà, miệng rối rít cám ơn và xin Chúa chúc lành cho hai em.  Thế là hết tiền, hai anh em đâm lo, không biết phải nói với mẹ làm sao.  Vừa tới ngang nhà thờ chính tòa thành Lima, hai anh em liền vào, lên tận bao lơn cung thánh.  Quỳ ở đó, Martinô đã cất lời cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu yêu dấu, xin ban của ăn cho chúng con.  Con mới cho người hành khất số tiền duy nhất của mẹ con rồi.  Chúng con không còn gì cho bữa tối nay.  Xin Chúa đừng để mẹ con buồn giận chúng con.  Cám ơn Chúa!”  Em Gioanna thưa: “Amen”.

            Martinô và Gioanna đứng dậy, bái Chúa rồi ra về, lòng đầy tin cậy Chúa biết rõ những gì gia đình các em cần.  Vừa thấy hai con, bà không thấy chúng cầm gì thì biết ngay chúng đã gặp ai và hành động thế nào rồi.  Bà cũng suy nghĩ có đánh,  có la mắng chúng lúc này cũng chẳng ích gì.  Vả lại, bà cũng từng bảo các con phải thương giúp người nghèo.  Bà quay vào và liên tưởng đến người chồng, với lời cầu nguyện:  “Lạy Chúa, xin cho ba tụi nhỏ sớm nghĩ lại, để chúng con có của nuôi thân, và có thể làm phúc cho cả những người nghèo nữa!”

            Khi Martinô được 8 tuổi, tức năm 1587, ông Gioan Porres, một sĩ quan Tây Ban Nha, đã hồi tâm và trở về chăm sóc mẹ con bà Anna Velasquez.  Ông đã đem hai con gửi trọ học ở nhà ông chú tên là Giacôbê tại Equador.  Ở đây các em được chú thương yêu và thuê người giám hộ tốt để dạy về chữ nghĩa và đức tính.  Martinô là cậu học sinh ngoan và thông minh.  Sau hai năm, cha cậu để Gioanna ở lại tiếp tục học, còn Martinô, ông bắt về ở bên mẹ tại Lima.  Ông căn dặn Martinô: “Con phải học nghề hớt tóc.  Cha hy vọng con sẽ cố gắng học, và cố gắng trở nên người Công giáo tốt”.  Martinô đã vâng lời cha và cố gắng học cũng như sống đạo tốt.

            Thời đó và trong hoàn cảnh sống tại Lima, thợ hớt tóc đồng thời cũng là “thầy lang”.  Họ phải học biết các kiến thức y học phổ thông, như biết bắt mạch chẩn bệnh,  biết băng bó vết thương, biết chữa các bệnh cảm cúm, sốt rét, biết nắn khớp xương và pha thuốc.  Martinô rất thích nghề này.  Cậu thưa với mẹ:  “Mẹ ơi, tập nghề hớt tóc là một nghề cao cả, mẹ ạ.  Học nghề này con có thể  giúp đỡ những người nghèo khó được nhiều, mẹ nhỉ!”  Mẹ cậu khích lệ con:  “Martinô, con là một đứa trẻ tốt.  Xin Chúa chúc lành và luôn gìn giữ con tốt mãi như vậy!”  Martinô thưa lại:  “Thưa me, đó là điều con hằng cầu nguyện mỗi sáng trong thánh lễ, và Chúa đã giúp con.  Ngài biến đổi con, giúp con học nghề này cho đạt kết quả tốt”.

            Sau hai năm học nghề, lúc 12 tuổi, Martinô vui vẻ và hăng say hành nghề.  Mỗi sáng, cậu tham dự Thánh lễ, có khi giúp lễ nhiều bao nhiêu có thể, tại nhà thờ Thánh Ladarô.  Sau đó, mang đồ nghề đi rảo quanh khắp xóm dân nghèo, tới đến với những người già yếu, tàn tật để săn sóc bệnh tật cho họ mà không lấy công.  Nhiều đêm cậu cũng phải thức để chăm sóc các con bệnh đang cần đến cậu.  Nhất là những người hấp hối cần cậu ở bên khích lệ họ tin tưởng vào Chúa, và giúp họ dâng lên Ngài những bệnh tật đau khổ.

            Năm lên 15, Martinô xin mẹ dẫn đến tu viện Mân Côi của các cha Dòng Ðaminh tại Lima để xin đi tu.  Tuy mẹ mong muốn con làm linh mục hay ít là làm thầy Dòng nhưng Martinô xin mẹ ưng thuận để cậu chỉ xin làm người giúp việc trong Dòng mà thôi.  Bà hỏi con: “Tại sao con không muốn làm linh mục hoặc thầy Dòng, mà lại chỉ muốn làm người giúp việc thôi?”  Cậu thưa: “Vì con không muốn trở nên người quan trọng.  Con chỉ muốn chu toàn những việc tầm thường vì yêu mến Chúa.  Xin mẹ vui lòng chấp nhận ước nguyện của con!”  Bà quyết định: “Ðược rồi, xin Chúa chúc lành cho con; còn trong tu viện, con muốn ở bậc nào tùy ý con chọn, mẹ chỉ xin con nhớ cầu nguyện cho mẹ”.  Trước đây cha Tu viện trưởng cũng đã nhiều lấn nghe biết về cậu Martinô, nên người đã ưng thuận.  Thế là Martinô được gia nhập tu viện, mang y phục người giúp việc trong Dòng Ðaminh.  Cậu cảm thấy mình đã được thuộc trọn về Chúa và Ðức Mẹ.

            Trong bậc giúp việc, Martinô đảm nhận nhiều công tác, như hớt tóc,  coi nhà giặt, phụ trách phòng y tế, Martinô rất vui trong việc phụng vụ tha nhân.  Bệnh nhân đầu tiên trong Dòng mà Martinô săn sóc, đó là Cha Phêrô.  Một chân cha bị thương và lại bị nhiễm trùng, cần phải giải phẫu và cưa chân để cứu sinh mạng.  Vì quá đau nên Cha Phêrô có phần bất nhẫn.  Tới bữa, Martinô dọn một đĩa rau tươi với những trái ôliu thật ngon mang tới Cha.  Ðến phòng, Maritnô gõ cửa.  Có tiếng từ trong đáp ra: “Ði chỗ khác, để  cho tôi yên”.  Bất kể tiếng la quát cứng cỏi của Cha, cậu cứ điềm tĩnnh đẩy cửa bước vào.  Với giọng săn sóc cậu hỏi: “Cha Phêrô ơi, Cha có thích dùng chút rau tươi tuyệt ngon này không?”  Cha Phêrô mở  to đôi mắt ngạc nhiên: “Sao lại không?  Tôi đang thèm rau tươi đây.  Sao cậu đoán được ý tôi?”  Cha Phêrô ngồi dậy và dùng một cách ngon lành, “Cảm ơn Martinô nhé!”  Cậu mỉm cười thưa: “Bây giờ để con thay băng cho Cha nhé?”  Cha cũng mỉm cười đồng ý.

            Thế là vừa thay băng Martinô vừa nói với Cha, “Thưa Cha, chắc Cha tin rằng Chúa sẽ  chữa lành vết thương của Cha chứ?”  “Martinô, con hãy cầu nguyện, để Chúa chữa lành vết thương của Cha!  Còn Cha, dù có chết Cha cũng không muốn giải phẫu!”

            Vừa ra khỏi phòng Cha Phêrô, Martinô lên ngay nhà nguyện, quỳ cầu nguyện trước Nhà Tạm: “Lạy Chúa chí ái, xin chữa lành chân Cha Phêrô.  Chúa đã từng chữa nhiều người khác, chẳng có gi mà Chúa không làm được.  Con tin Chúa”.  Tối hôm đó, khi Martinô trở lại thăm Cha Phêrô, cậu đã thấy Cha đang đi đi lại lại trong phòng!  Vừa thấy cậu, Cha kêu lên: “Martinô, Martinô! con đã chữa lành vết thương của Cha rồi!  Cha không biết phải cám ơn con thế nào.  Con rời khỏi đây chừng nửa giờ, thì chỗ bị sưng xẹp xuống và cơn đau cũng biến mất.  Con vừa làm một phép lạ đó!”  Martinô thưa lại, “Xin Cha đừng nói như vậy, con chỉ thay băng cho Cha thôi, chính Chúa mới làm cho vết thương Cha lành”.  “Ðúng rồi, nhưng nếu con không cầu nguyện, chắc chắn Cha cũng chưa khỏi!”

            Không những Martinô hết lòng thương yêu giúp đỡ mọi người, cậu  còn săn sóc và bảo vệ sự sống của các con vật nữa.  Các chú chim đến với cậu để kiếm ăn, các con mèo hoang cũng vậy.  Cậu luôn dự trữ sẵn đồ ăn cho chúng.  Một hôm, đàn chuột cắn đồ lễ tại Cung thánh, thầy phụ trách đã trình Cha Bề trên và xin để cậu Martinô diệt chúng, cậu bèn cầu nguyện, rồi đi lên phòng thánh.  Vừa bắt gặp một chú chuột, Martinô gọi nó, nó đã ngoan ngoãn chạy lại bên cậu, Martinô nói: “Bây giờ chú hãy nghe cho kỹ... chú và các chuột khác phải rời khỏi phòng thánh này ngay, vì các chú đã cắn áo lễ.  Chúa không hài lòng với các chú về việc này.  Vậy các chú bảo nhau thu dọn ra ở chuồng bò.  Tôi sẽ đem đồ ăn đến cho các chú.  Hiểu chưa?”

            Con chuột gật đầu rồi chạy mất.  Một lát sau, nó dẫn một đàn chuột theo, nhắm thẳng hướng tay Martinô chỉ ra chuồng bò.  Thầy phụ trách Cung thánh cũng hết sức ngạc nhiên khi chứng kiến đàn chuột đang đi theo hướng tay Martinô chỉ.  Thầy đã lên trình Cha Bề trên về hiện tượng lạ lùng ấy.  Và từ đó, không còn thấy lũ chuột cắn đồ lễ nữa.

            Chín năm Martinô ở bậc giúp việc; đến năm 1603, khi anh đã 24 tuổi, các Bề trên nhận thấy ơn Chúa thương Martinô nhiều.  Anh đã khiêm nhượng xin ở bậc giúp việc chứ không dám xin ở bậc các thầy.  Các Bề trên và tất cả nhà Dòng đều nhận thấy anh sống đời cầu nguyện, khiêm nhượng thống hối và  bác ái gương mẫu nên đã quyết định cho anh lên bậc tu sĩ thực thụ.  Bề trên gọi Martinô và bảo: “Martinô, từ nay con không còn là người giúp việc nữa.  Con sẽ là một Thầy Dòng”.  Martinô thưa lại, “Thưa Cha, con bất xứng!”  “Việc đó Cha chịu trách nhiệm.  Con hãy mời mẹ con llên đây dự lễ Mặc áo Dòng!”
            Khi được tin, mẹ cậu đã hết sức vui mừng.                     



            Sau ngày Mặc áo Dòng, Martinô đã nhận thêm những trách vụ mới, như việc săn sóc những người nghèo khó bằng những lời: “Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành, gia tăng lương thực này, và xin Người thánh hóa tất cả những ai dùng của ăn này”.  Lời nguyện này luôn luôn thấy hiệu lực.  Bất kể người được ít kẻ được nhiều, không một ai đến xin ăn mà phải về tay không.  Ai nấy đều được no đủ và hài lòng với thầy Martinô.

            Một hôm, lúc thầy Martinô đem những ổ bánh cuối cùng trong kho nhà Dòng phát cho người nghèo, làm ông giúp việc nấu bếp lo lắng.  Ông chạy đến thưa Cha Bề trên, nhưng ngài điềm tĩnh đáp: “Ông đừng lo,  thầy Martinô không phát hết đâu, bánh sẽ còn đủ cho cả chúng ta nữa”.

            Quả đúng như lời Cha Bề trên, vì hằng ngày, không rõ số bánh thầy Martinô đã cho đi  bao nhiêu, nhưng các thầy vẫn luôn luôn có đủ bánh dùng.

            Thầy Martinô luôn làm các việc bình thường trở nên những việc khác thường bằng tình yêu mến Chúa “hết lòng, hết sức, hết linh hồn” và phục vụ “yêu thương” anh em đồng bào theo giới răn bác ái của Chúa.  Thầy thể hiện hai giới răn này suốt từ khi có trí khôn.  Suốt hơn 45 năm sống đời khiêm hạ và bác ái trong Dòng Thánh Ðaminh tại Lima, Martinô tận tâm phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân, những người nghèo khó và các trẻ em mồ côi.  Thầy sống rất đẹp lòng Chúa nên Ngài đã làm bao nhiêu điều lạ lùng qua lời cầu nguyện của Thầy: như các lần thị kiến, xuất thần, đánh  tội nhiệm nhặt, ở hai nơi một trật, thông hiểu thần học, làm phép lạ  chữa lành bệnh nhân, cảm  thông hiểu biết cũng như sai khiến được các con vật vô tri.

            Thầy sống thật xứng đáng là một tu sĩ gương mẫu trong đức vâng lời trọn hảo, đức khiêm nhượng thẳm sâu, và lòng thương yêu đối với các thụ tạo của Thiên Chúa.  Vị Thánh hai dòng máu Tây Ban Nha và Pêru da mầu này đã thể hiện tình yêu thương với mọi người không phân biệt chủng tộc, màu da hay quốc tịch.  Thầy phục vụ Chúa Kitô trong mọi người, vô điều kiện và vô  giới hạn.  Trong những đêm dài cầu nguyện và thông hối, Martinô được đói khát tình yêu Thiên Chúa,  và trong những ngày dài Thầy dành để săn sóc các bệnh nhân, nuôi dưỡng người nghèo,  thi hành các công việc lao tác của nhà Dòng với một lòng khao khát cứu rỗi các linh hồn.  Ðời sống thánh thiện của Thầy khiến cho các Bề trên và cả tu viện coi Thầy như một vị linh hướng gương mẫu của họ.  Chính Thầy đã khiêm nhượng tự  xưng mình là “người nô lệ hèn mọn” hoặc là “con chó lai = Mulatto dog”.  Nhưng người dương thời gọi Martinô là “Cha bác ái” và “Cha của người nghèo”.

            Ðầu tháng 11 năm 1639, gần ngày sinh nhật thứ 60, Thầy ngã lâm trọng bệnh, suốt ba ngày chịu đau khổ cách can đảm.  Trong khi  đó, những người từng được Thầy săn sóc giúp đỡ, đã cầu nguyện và khóc thương Thầy bên ngoài tu viện.  Ðến ngày thứ tư, bệnh tình của Thầy có phần thuyên giảm.  Ðức Mẹ và Thánh Ðaminh đã hiện ra để yên ủi Thầy.  Martinô đã mời Bề trên và mọi anh em trong tu viện tới.  Họ đến để cầu nguyện cho Thầy trong cơn hấp hối.  Cha Bề trên hỏi: “Thầy Martinô, Thầy muốn chúng tôi hát bài ca nào để tiễn đưa Thầy?”  Thầy đáp lại, “Xin hát kinh Tin kính”.

            Thế là toàn thể anh em cao giọng cất lên bài ca tuyên xin Ðức Tin.  Tới câu “Thiên Chúa là Cha toàn năng, Ðấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình” thì Thầy nhắm mắt lìa trần, linh hồn bay về với Ðấng mà các tu sĩ đang tung hô ca ngợi.  Hôm đó là ngày 4 tháng 11 năm 1639.

            Ðức Thánh Cha Gioan XXIII đã  phong thánh cho Thầy Martinô đe Porres ngày 6 tháng 5 năm 1962, và gọi người là “Martinô Bác Ái”.  Lễ kính Thánh nhân trong toàn thể Giáo Hội được ấn định vào ngày 3 tháng 11 hằng năm.