Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2012

MA QUỶ THỜI ĐẠI MỚI

Chúa nhật IV thường niên - Năm B
MA QUỶ THỜI ĐẠI MỚI
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Từ ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma quỷ. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam hãm.

Đức Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma quỷ. Ngay khi Đức Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề. Đức Giêsu đã toàn thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy.

Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.

Người trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của satan. Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả một đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn heo đang ăn bên bờ biển, và cả đàn heo lăn xuống biển chết hết.

Người gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của satan qua việc chữa bệnh. Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”.

Người tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi,nên Người thường lui tới với những người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.

Qua những việc làm của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của chúng.

Cuộc chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các Tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay, Người sai chúng ta tiếp bước các Tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế giới.

Có thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn. Có thứ quỷ dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.

Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy.

Với bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộm cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xui giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.

Hôm nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.

Hãy tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ.

Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.

Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.


nguồn tinmung.net

Thứ Ba, 24 tháng 1, 2012

Lễ kính các Thánh theo năm phụng vụ


Thứ Năm, 19 tháng 1, 2012

Đức Thánh Cha kêu gọi bảo vệ tự do tôn giáo tại Hoa Kỳ

Đức Thánh Cha kêu gọi bảo vệ tự do tôn giáo tại Hoa Kỳ
LM. Trần Đức Anh OP
VATICAN - Trong buổi tiếp kiến sáng 19-1-2012, dành cho các GM Hoa Kỳ, ĐTC cảnh giác về trào lưu văn hóa đang tìm cách thu hẹp tự do tôn giáo tại nước này, và hạn chế chứng tá công cộng của Giáo Hội Công Giáo về luân lý.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến dành cho 16 GM, đứng đầu là ĐHY Donald Wuerl, từ vùng thủ đô, bang Maryland, Delaware, Virginia, Tây Virginia và Tổng giáo hạt quân đội Mỹ, về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

ĐTC nói đến một số trào lưu văn hóa ở Mỹ chủ trương giới hạn chân lý trong lãnh vực hoàn toàn là khoa học duy lý, hoặc loại bỏ sự thật luân lý nhân danh quyền bính chính trị hoặc qui luật của đa số.. Ngài nói: “Những trào lưu ấy không những là một đe dọa cho đức tin Kitô, nhưng còn cho chính nhân loại và cho sự thật sâu xa nhất về con người và ơn gọi tối hậu của chúng ta, quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Khi một nền văn hóa toan tính hủy bỏ chiều kích mầu nhiệm tối hậu, và khép kín đối với chân lý siêu việt, thì chắc chắn nó trở nên nghèo nàn và rơi vào quan niệm hẹp hòi và độc đoán về con người và bản chất của xã hội”.

ĐTC đề cao vai trò phê bình của Giáo Hội chống lại trào lưu văn hóa dựa vào chủ nghĩa cá nhân tột độ, tìm cách thăng tiến những ý niệm tự do tách rời khỏi sự thật luân lý.. Sự bảo vệ của Giáo Hội dành cho lý lẽ luân lý dựa trên luật tự nhiên vì Giáo Hội xác tín rằng luật này không phải là một đe dọa cho tự do của chúng ta, nhưng đúng hơn, đó là một ”ngôn ngữ” giúp chúng ta hiểu được chính mình và chân lý về con người chúng ta, hầu kiến tạo một thế giới công chính và nhân bản hơn. Vì thế, Giáo Hội đề nghị các giáo huấn luân lý như một sứ điệp, không cưỡng bách nhưng là giải thoát, và như một căn bản để xây dựng một tương lai chắc chắn”.

Cũng trong bài huấn dụ khi tiếp các GM Hoa Kỳ, ĐTC mời gọi toàn thể cộng đồng Công Giáo tại Hoa Kỳ ý thức về những đe dọa trầm trọng đối với chứng tá công cộng của Giáo Hội về luân lý, do trào lưu tục hóa cực đoan gây ra, trào lưu này ngày đàng được biểu lộ trong lãnh vực chính trị và văn hóa.

ĐTC nói: ”Cần nhận thức rõ những đe dọa nghiêm trọng ấy trong mọi cấp độ của đời sống Giáo Hội. Điều đặc biệt đáng lo là một số toan tính nhắm giới hạn tự do tôn giáo, vốn là điều được quí chuộng nhất trong các quyền tự do của người Mỹ. Nhiều người trong anh em đã vạch rõ sự kiện: nhiều nỗ lực có phối hợp đang được thực hiện để phủ nhận quyền phản kháng lương tâm của các cá nhân và tổ chức Công Giáo về việc cộng tác đối với những đường lối thực hành tự chúng là xấu. Một số anh em khác đã nối với tôi về xu hướng đáng lo âu, nhắm thu hẹp tự do tôn giáo vào tự do phụng tự, và không có sự bảo đảm tôn trọng tự do lương tâm”.

Sau cùng, ĐTC kêu gọi các GM Hoa Kỳ đẩy mạnh việc thăng tiến một hàng ngũ giáo dân Công Giáo dấn thân, được huấn luyện kỹ lưỡng, với một ý thức phê bình mạnh mẽ đối với trào lưu văn hóa đang thống trị, và có can đảm chống lại chủ nghĩa duy tục hóa, không cho Giáo Hội được tham gia vào cuộc thảo luận công cộng về những vấn đề quan trọng đối với tương lai của xã hội Hoa kỳ. Việc chuẩn bị những vị lãnh đạo giáo dân dấn thân và trình bày lập trường có sức thuyết phục về nhân sinh quan và xã hội quan Kitô giáo là một trách vụ hàng đầu của Giáo Hội tại đất nước anh em, như những yếu tố thiết yếu trong cuộc cuộc tái truyền giảng Tin Mừng. Các mối quan tâm này phải hình thành viễn tượng và mục tiêu của các chương trình giáo lý ở mọi cấp độ”.

Trong thời gian gần đây, HĐGM Hoa Kỳ đã nhiều lần lên tiếng tố giác các đạo luật tại một số nơi ở Mỹ đe dọa hoặc kỳ thị các tín hữu Kitô, đặc biệt là Công Giáo, như luật buộc các tổ chức Công giáo phải trả bảo hiểm ngừa thai cho các nhân viện, luật công nhận hôn nhân đồng phái, buộc các tổ chức Công Giáo phải giúp các cặp đồng phái nhận con nuôi, nếu không sẽ không được tài trợ của chính phủ, v.v. HĐGM Mỹ đã thành lập Ủy ban GM về tự do tôn giáo để giúp gây ý thức và động viên các thành phần Giáo Hội bảo vệ tự do tôn giáo. (SD 19-1-2012)

Theo Vietcatholic 19/1/2012

Thứ Tư, 18 tháng 1, 2012

Chuyện LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT - Tác giả bài viết: Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU

Trước tiên, xin được “mở ngoặc” và nói ngay, tôi là một người rất bình thường, bình thường nhất trong những người bình thường. Và cũng xin nói thêm trước: Tôi không có ý “đánh bóng” mình (như một người đã nặc danh gởi mail cho website mà tôi chỉ nói những gì là THẬT (nếu cách diễn đạt của tôi có gì “chưa đạt” khiến người khác hiểu sai, tôi thành thật xin lỗi, nhân danh Đức Kitô), vì đối với “phong trào” sùng kính LCTX thì tôi chỉ là Kẻ Đến Sau!

12:15 trưa Chúa nhật, 10-7-2011, một người bạn “có tuổi” gởi cho tôi một “meo” ngắn gọn (xin được giấu tên người gởi – nếu ai muốn biết mức độ chính xác, xin gởi mail riêng để tôi có thể Forward), nguyên văn như sau (các chữ “tô đậm” là ý riêng tôi muốn nhấn mạnh):

Anh THU thân,
Vừa rồi có một ông cha xứ nói với tôi: chỉ cần tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giê-su là được rồi vì trong thánh tâm đã có lòng thương xót. Lòng thương xót Chúa chẳng qua là một phong trào nhắm vào người vô thần thôi, không cần thiết lắm. Xin anh giải thích riêng giùm tôi để tôi có thể chuyển cho ngài.

Và tôi đã trả lời, nguyên văn như sau:

Chào anh,

Trước hết xin cảm ơn anh đã "tin tưởng" mà chia sẻ... TramThienThu xin được hẹn anh trong vòng MỘT ngày sẽ trả lời anh CHI TIẾT (bây giờ là 12:15 trưa Chúa nhật XV thường niên năm A). Chúc anh bình an và luôn tin vào LCTX.
Tôi xin nói quan điểm riêng tôi:
Cách nói của một linh mục nào đó vừa đúng vừa sai. Tại sao?
Bạn hiểu thế nào là phong trào? Vì dụ, Đại hội Giới trẻ sắp tới tại Madrid là một phong trào và kêu gọi tiết kiệm điện hoặc giữ sạch môi trường cũng là phong trào. Phong trào cũng có tính tích cực hay tiêu cực. Tôi biết có linh mục khác, không “mặn mà” với LCTX, còn nói: “Cứ về thương xót nhau đi”. Vừa đúng vừa sai!
Sứ điệp Lòng Chúa Thương Xót được chính Chúa Giêsu trao phó, chính giáo hội cũng đã “nghi ngờ” và cho rằng thánh nữ Faustina (1905-1938) có vấn đề về tâm thân, vì chính thánh nữ là người không được học bao nhiêu, nói chung theo cách nói ngày nay là DỐT, nhưng thánh nữ “dốt” chữ chứ không “dốt” yêu thương. Mãi đến năm 1978, sau khi nhận lãnh trọng trách “chăn dắt chiên cmẹ và chiên con”, Chân phước Giáo hoàng Gioan-Phaolô II (Karol Józef Wojtyła, 18.5.1920 – 2.4.2005) mới “giải oan” cho thánh nữ và chính thức loan truyền LCTX và công bố Chúa nhật II PS là lễ mừng kính LTXC, và chính CP Gioan-Phaolô II cũng đã ban hành Thông điệp Thiên Chúa Giàu Lòng Xót Thương ().

Người có công đầu tiên truyền bá LCTX chính là Lm Micae Sopocko (Ba Lan), linh mục giải tội cho thánh nữ Faustina. Ngài là một linh mục nhiệt thành, sống tâm linh, hạnh phúc với sứ vụ mục tử, nhưng chính linh mục này mới đầu cũng “nghi ngờ” thánh nữ Faustina bị tâm thần. Nhưng từ năm 1933, khi được bổ nhiệm làm tuyên úy cho Dòng Nữ tử Đức Mẹ của Lòng Thương Xót (Sisters of Our Lady of Mercy) ở Vilnius, nay là Lithuania, Lm Micae Sopocko đã “thay đổi hoàn toàn”.

Sau mỗi chục Kinh Mân Côi, giáo hội có lời nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn”. Như vậy, Giáo hội đã “nhắc nhớ” tới LCTX từ lâu rồi, nhưng đôi khi có mấy ai lưu ý!

Trong bài thánh ca “Tán Tụng Hồng Ân”, cố nhạc sư Hải Linh đã viết: “Con sẽ ca ngợi Lòng Thương Xót Chúa muôn muôn đời”, dù lúc ông sáng tác bài đó chưa phổ biến việc sùng kính LCTX, tôi nghĩ ông như nói tiên tri vậy.

Ngay cả việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu cũng chỉ có từ thế kỷ 11, nhưng mãi đến thế kỷ 16, đó vẫn là lòng sùng kính riêng tư, thường liên kết với lòng sùng kính Năm Dấu Thánh Chúa Giêsu. Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu đầu tiên được cử hành ngày 31-8-1670 ở Rennes, Pháp, nhờ nỗ lực của Lm Gioan Eudes (1602-1680). Tại Rennes, lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu lan rộng, nhờ thị kiến của thánh nữ Margaret Maria Alacoque (1647-1690) mà lòng sùng kinh Thánh Tâm Chúa Giêsu mới lan rộng toàn cầu.

Thiên Chúa là Vị-Thẩm-Phán-Nhân-Hậu và mệnh danh là Tình Yêu (x. 1Ga 4, 8 & 16). Nói đến Tình Yêu Thiên Chúa hay Thánh Tâm Chúa, hoặc Lòng Chúa Thương Xót, đúng là vẫn là MỘT. Không Yêu thì không có Trái Tim, có Trái Tim thì ít nhiều phải biết Yêu (dù yêu kiểu nào), ngay cả người tâm thần vẫn biết yêu (ở mức độ nào đó). Máu còn chảy là tim còn đập, tim còn đập là còn yêu, người sống thực vật vẫn biết Yêu dù họ không thể nói ra, mà yêu theo “kiểu” Chúa Giêsu tức là Lòng Thương Xót. Tình yêu hay Lòng Thương Xót , hoặc lòng trắc ẩn, luôn khó hiểu. Thiên Chúa kỳ diệu vì Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4, 8 & 16).

Não bộ là trung tâm điều khiển, nhưng trái tim mới chính là “trung tâm sự sống”, là nguồn sống. Những người bị điên khùng, bị thiểu não, hoặc bị bại não và sống thực vật, thậm chí là chết lâm sàng, nhưng họ vẫnsống nhờ trái tim hoạt động. Tim hoạt động nghĩa là máu còn lưu thông. Vậy MÁU rất quan trọng cho sự sống. Chúng ta thường nói người này hay người nọ “máu lắm” là vậy. Cũng chính vì máu đó mà Thánh Tâm Chúa Giêsu là “lò lửa yêu thương” hằng cháy bừng. Nhưng máu Ngài không bạo động, không thù hằn, không ghen ghét,… mà máu Ngài chỉ đầy chất YÊU. Chẳng vậy mà trước khi chết, Ngài còn “làm phép” để trao ban chính Máu Thịt Ngài làm thần lương nuôi sống chúng ta hằng ngày. Độc chiêu quá!

Đáng lẽ chúng ta, những tội nhân, phải bị Thiên Chúa trừng phạt vì đã phạm những tội quá kinh khiếp và tái phạm quá nhiều lần, tiếp tay với Giuđa và ăn chia với ma quỷ, đồng thời lại “rửa tay” như Philatô, nhưng Thiên Chúa đã bắt chính Con Yêu Dấu là Chúa Giêsu “phải” chịu hình phạt là chết thay cho chúng ta. Chúa Giêsu biết mình bị hàm oan nhưng Ngài hết lòng tuân phục Cha nên vui nhận cái chết nhục nhã ê chề nhất: “Đức Ki-tô đã cứu chuộc chúng ta khỏi bị nguyền rủa vì Lề Luật, trong khi vì chúng ta mà chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa, vì có lời chép: Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ bị treo trên cây gỗ!” (Gl 3:13).

Vậy Chúa Giêsu là người tâm thần! Nếu không tâm thần thì tại sao Ngài lại yêu thương kẻ ghét cay ghét đắng mình đến nỗi điên cuồng là chịu chết nhục nhã trên Thập giá? Kẻ ghét Ngài là ai? Là chính chúng ta (từ giáo hoàng tới giáo dân), vì tất cả chúng ta đều là tội nhân, mới sinh ra là tội nhân rồi, thế nên mới PHẢI rửa tội, và nếu không nhờ Ơn Cứu Độ thì không ai được nên công chính!

Tất cả chúng ta, ngay cả người được coi là đạo đức, cũng vẫn luôn cần LCTX, linh mục nọ SAI ở chỗ này. Còn người ngoại đạo hoặc vô thần càng cần LCTX hơn là cái chắc, nhưng nên biết rằng “ở đâu nhiều tội lỗi thì ở đó nhiều ân sủng” (Rm 5:20), nghĩa là ai càng tội lỗi thì càng đáng hưởng nhờ LCTX, vì chính Chúa Giêsu đã bỏ 99 con chiên “ngoan” mà đi tìm 1 con chiên lạc (x. MT 18, 12-14; Lc 15, 4-7). Thế mới là Thiên Chúa yêu thương.
Vậy LCTX có thực sự cần thiết hay không, cần ít hay nhiều? Riêng tôi thì rất cần và luôn rất cần LCTX.

Phúc âm về người gieo giống (CN XV TN/A – Mt 13:1-23), chúa chỉ nói “nhẹ” thôi: “Ai có tai thì nghe!”. Thật quá đơn giản, nhưng thiết tưởng lại không hề đơn giản! Người Việt thường nói: “Vô tri bất mộ”.

Và đây là CHIẾC KIỀNG của LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT:
Lòng Thương Xót Chúa rạch ròi
Ba T làm chuẩn cho người người theo
Chữ T thứ nhất: Thỉnh cầu
Thứ hai: Tín thác vững vào Giêsu
Thứ ba: Sớm tối chăm lo
Thực hành Luật Chúa sớm khuya chân tình
Lòng Thương Xót Chúa công minh
Chúa hứa rành rành, chẳng chút gì sai!

Chúng ta phải sống yêu thương vì Ngài yêu thương chúng ta trước (x. 1Ga 4:19). Nhưng dù có làm được gì thì chúng ta cũng chỉ là đầy tớ vô dụng (x. Lc 17:10).

Xin cảm ơn người gởi mail, vì nhờ vậy mà tôi có dịp nói một chút về LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT, và có lẽ tôi cũng đang có vấn đề về tâm thần! Xin Chúa biến đổi mỗi người trong chúng ta ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.

Tác giả bài viết: Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU  
Nguồn tinvui.info 

Thứ Sáu, 13 tháng 1, 2012

Trích di chúc của ĐGH Gioan Phaolo II

Trích di chúc của ĐGH Gioan Phaolo II

"Các con thân mến!
Hiện nay các con đang sống trong thời đại đầy gian nguy và thử thách. Các con hãy cố gắng kiên tâm vững tin vào Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu đã hiện ra nói với cha, nhờ cha thông báo lại cho các con những sứ điệp này: “Các con hãy cầu khẩn Thiên Chúa các con, giải trừ nguy nan trong thế giới sắp sụp đổ này”.
Các con thân mến, khi cha ra đi cũng chính là lúc những biến cố thảm họa sẽ đổ xuống thế giới này: chiến tranh ngày càng lan rộng, động đất khắp nơi, các cuộc đại nạn lớn lao sẽ xảy ra, tại các nước lớn như Nhật bản, Trung quốc, Philippin.
Các con là những người cha tin yêu nhất, là những người con thuộc dòng dõi Đavít[1], các con hãy kêu xin cùng Thiên Chúa, bằng cách các con đọc kinh cầu nguyện:
Với những lời kinh tha thiết sau đây:

Xướng : Xin Thiên Chúa dủ lòng thương xót chúng con!
Đáp : Vì Chúa đã sinh ra chúng con, và đặt chúng con trên trái đất này.

Xướng : Xin an ủi nâng đỡ chúng con trong lúc gian nguy.
Đáp : Vì Chúa là nguồn an ủi của chúng con.

Xướng : Xin xua đuổi những giặc thù xa chân chúng con.
Đáp : Vì Chúa là Đấng đã bảo vệ chúng con.

Kết : Xin phù hộ chúng con trên đường dương thế, tránh xa kẻ thù tội lỗi, để chúng con một ngày kia, sẽ được hưởng phúc vinh quang muôn đời, cùng với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.

Sau những lời nguyện trên, các con hãy đọc:
- Một kinh Tin kính
- Một Kinh Chúa Thánh Thần
- Một Kinh ăn năn tội
- Và lời nguyện tắt: “Giêsu Maria Giuse con mến yêu, xin cứu rỗi linh hồn con và muôn dân muôn nước”.

Khi các con phổ biến một bản kinh này cho một người thì các con được hưởng một ơn tiểu xá, cứ 100 người thì được một ơn đại xá. Và khi các con rời thế gian này, sẽ được các Thiên Thần đưa về Trời, hưởng hạnh phúc muôn đời.
Cha ban phép lành và chúc phúc cho những ai phổ biến bản kinh này".

(Trích dịch “Di chúc của ĐTC GP II”, theo bản tiếng Anh của cha Lorento thuộc Bộ Giáo Lý Đức tin, Rôma.)
Nguồn:http://thanhcavietnam.org/forum/showthread.php?p=113430

_________________

Di chúc của Đức Gioan-Phaolô II (bài dịch nguyên bản)

PHẦN I
Vaticanô, thứ Năm ngày 07 tháng 04 năm 2005 (Zenit.org) - Dưới đây là bài dịch nguyên bản từ tiếng Ý, của Tờ Di Chúc tinh thần của ĐGH Gioan-Phaolô II, ấn hành bởi Tòa Thánh Vaticanô ngày 07 tháng 04 năm 2005.
DI CHÚC
Di chúc ngày 06.03.1979 (và những lần thêm kế tiếp)
Con tùy thuộc tất cả về Mẹ. (Totus Tuus ego sum)
Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực Thánh. Amen.
« Hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào Chủ các con đến » (Coi Mt 24, 42) - Những lời này gợi trong tôi lời gọi cuối cùng sẽ đến vào lúc mà Chúa sẽ muốn. Tôi ao ước theo Ngài và tôi ao ước rằng tất cả những gì thuộc về đời sống trần gian của tôi chuẩn bị tôi cho lúc này. Tôi không biết khi nào Ngài đến, nhưng như với mọi sự, tôi cũng đặt cả giây phút này trong tay Người Mẹ của Chúa tôi : Tất cả dâng cho Mẹ (Totus Tuus). Trong những bàn tay mẫu tử này, tôi đặt hết mọi sự và tất cả Những Người mà đời sống cũng như ơn gọi của tôi đã được gây mối giây liên lạc. Trong những Bàn Tay này, tôi xin trao cách đặc biệt Giáo Hội cũng như Quê Hương tôi và tất cả nhân loại. Tôi cảm tạ tất cả. Tôi xin tất cả thứ lỗi cho tôi. Tôi cũng xin một lời nguyện để cho Lòng Nhân Từ của Chúa tỏa hiện lớn hơn là sự yếu đuối và sự bất xứng của tôi.
Trong những dịp Linh-Thao, tôi đã đọc lại lời di chúc của Đức Thánh Cha Phao-lô VI. Bài đọc này đã thúc đẩy tôi viết bản di chúc này.
Tôi không để lại sau tôi một của cải gì mà cần thiết phải giữ cả. Về những đồ vật mà tôi dùng thường ngày và hữu ích cho tôi, tôi xin sao chúng được phân phối tất cả một cách thuận tiện nhất. Những điều ghi chép bằng tay xin được đốt đi. Về điểm này, tôi yêu cầu Cha Stanislao lo liệu, người mà tôi cám ơn cho sự cộng tác và giúp đỡ trong suốt bao năm trường với đầy cảm thông. Tất cả những lời cảm tạ khác, ngược lại, tôi xin giữ trong tim tôi trước Chính Thiên Chúa, bởi vì rất khó để diễn tả những lời đó.
Về phần mai táng, tôi lập lại những điều khoản mà Đức Thánh Cha Phaolô VI đã đặt ra. ( đây có một lời ghi chú bên lề : quan tài trong đất, chứ không trong hòm đá, 13.03.1992).
« Vì ở nơi Chúa là lòng nhân từ : và nơi Người là ơn cứu độ chan hòa » (trong kinh « Từ Vực Sâu » (De Profundis).
«Qui apud Dominum misericordia : et copiosa apud Eum redemptio »
Gioan-Phaolô II.
La Mã mùng 06.03.1979
Sau khi tôi chết, tôi xin những thánh lễ và lời cầu nguyện.
Ngày 05.03.1990
Giấy không đề ngày :
Tôi diễn tả với lòng trông cậy sâu xa nhất, mặc dù với tất cả sự yếu đuối của tôi, rằng Chúa sẽ cho tôi tất cả ân sũng cần thiết để đối chọi, theo thánh ý Ngài, bất cứ công việc, thử thách và khổ đau nào mà Ngài muốn cho đầy tớ của Ngài trong cuộc sống. Tôi cũng tin tưởng  rằng, qua thái độ của tôi : những lời nói, những công việc và những sơ sót, Ngài sẽ không bao giờ để tôi có thể phản bội những bổn phận của tôi trên Ngai thánh giáo hoàng này.
24 tháng 02 – 01 tháng 03 năm 1980
Cũng trong dịp linh-thao này, tôi đã suy ngẫm về chân lý của Chức Vụ Linh Mục của Đức Kitô trong viễn tượng của chuyến hành trình, đối với mỗi người trong chúng ta, là chính lúc mình chết. Sự Phục Sinh của Đức Kitô, đối với chúng ta, là một dấu chỉ hùng hồn (được viết thêm phía trên : « quan trọng ») của lúc từ giã cõi đời này - để được sinh ra trong thế giới bên kia, thế giới tương lai.
Như thế tôi cũng đã đọc lại bản di chúc của tôi viết hồi năm ngoái, cũng vào dịp cấm phòng – tôi đã so sánh bản ấy với bản di chúc của vị đi trước tôi vĩ-đại và là Cha Phaolô VI, với chứng tá tuyệt vời về sự chết của một kitô hữu và một Giáo Hoàng – và tôi đã cải tân trong tôi ý thức về những câu hỏi mà bản di chúc ngày 06.03.1979 đề cập tới mà tôi đã chuẩn bị (một cách đúng hơn là tạm thời).
Ngày hôm nay, tôi chỉ mong thêm vào bản di chúc đó điều này : chớ gì mỗi người phải giữ trong tâm trí viễn tượng của sự chết và phải biết sẵn sàng trình diện trước Thiên Chúa và Đấng Thẩm Phán – và cùng là Đấng Cứu Độ và Người Cha. Tôi cũng thế, tôi ý thức sự nối tiếp này, giao phó giờ quan trọng này vào Mẹ của Đức Kitô và của Giáo Hội – vào Người Mẹ của niềm hy vọng của tôi.
Thời gian mà chúng ta đang sống, một cách rất khó diễn tả, thật là khó khăn và đáng lo ngại. Con đường của Giáo Hội cũng thật khó khăn và khô cằn, bằng chứng tiêu biểu của thời đại này, vừa đối với các tín hữu cũng như các vị chủ chăn. Trong một vài quốc gia (như chẳng hạn quốc gia mà tôi đã đọc một vài điều liên quan đến trong những dịp cấm phòng), Giáo Hội lâm vào một giai đoạn của bách hại đến độ cũng chẳng kém gì những thế kỷ đầu tiên, và còn hơn thế nữa, nó còn vượt quá bởi mức độ của sự khinh bỉ và oán ghét. « Máu các Thánh Tử Đạo, mầm giống của các Tín Hữu » (Sanguis martyrum – semen christianorum). Và thêm vào điều đó - biết bao nhiêu người vô tội mất tích, kể cả trong quốc gia này mà chúng ta đang sống …
Tôi ao ước một lần nữa trao phó trọn vẹn bản thân tôi vào ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ mình Ngài sẽ quyết định khi nào và như thế nào đời sống trần gian và chức phận mục vụ của tôi phải kết thúc. Trong cuộc sống và trong sự chết « Tất cả dâng cho Mẹ » (Totus Tuus) qua Đức Vô Nhiễm Nguyên Tội. Bằng cách chấp nhận ngay từ bây giờ sự chết này, tôi hy vọng rằng Đức Kitô sẽ ban ơn cho tôi cho đoạn đường cuối cùng, nghĩa là sự Phục Sinh (của tôi). Tôi cũng hy vọng là Ngài sẽ biến sự chết này thành hữu ích cho cả mục tiêu này quan trọng hơn mà tôi hằng kiếm cách phục vụ : sự cứu rỗi con người, sự bảo trì gia đình nhân loại, và qua nhân loại tất cả các quốc gia và các dân tộc (trong các quốc gia này, tôi cũng xin một cách đặc biệt cho Quê Hương trần gian của tôi) ; hữu ích cho những người mà Ngài đã giao phó cho tôi một cách đặc biệt, cho vấn đề của Giáo Hội, cho sự vinh danh của chính Chúa nữa.
Tôi không muốn thêm gì nữa vào điều đã được viết cách đây một năm - chỉ nhắc lại sự bộc phát tự nhiên và cùng lúc sự tin tưởng mà tuần linh thao này đã lần nữa khơi dậy trong tôi.
Gioan-Phaolô II.
« Totus Tuus ego sum »
Ngày 05.03.1982
Qua dịp linh thao của năm nay, tôi đã đọc (nhiều lần) bản di chúc ngày 06.03.1979. Mặc dù tôi cho là bản đó còn là tạm thời (chưa nhất định), tôi để lại nó dưới hình thức như thế. Tôi không thay đổi gì cả (trong lúc này), và tôi cũng chẳng thêm thắt gì cả liên quan đến những dự định được viết trong bản di chúc.
Vụ ám sát tính mạng tôi vào ngày 13.05.1981, một hình thức nào đó, đã xác định sự chính xác của những lời đã được ghi chép trong dịp linh thao của năm 1980 (từ 24.02 đến 01.03).
Tôi cảm thấy lại càng sâu xa hơn khi tôi thấy mình hoàn toàn trong bàn tay của Thiên Chúa – và tôi luôn sẵn sàng theo ý Chúa Tôi, tự bỏ mình cho Ngài qua Mẹ Vô Nhiễm của Ngài (Totus Tuus).
Gioan-phaolô II.
05.03.1982
Liên quan đến câu cuối cùng của bản di chúc của tôi viết ngày 06.03.1979 (« về điều liên quan đến nơi chốn, nghĩa là nơi chôn cất, xin Hội Đồng các Hồng Y và các đồng bào của tôi quyết định »), - tôi muốn nói là : Đức Tổng Giám Mục thành Cracovie hay Hội Đồng Giám Mục nước Ba Lan – như thế tôi xin Hội Đồng các Hồng Y thỏa mãn, nếu có thể, những yêu cầu của những người đã được kể trên.
******
Ngày 01.03.1985 (trong dịp cấm phòng)
Lần nữa - về điều liên quan đến câu “Hồng Y Đoàn và các đồng hương” : “Hồng Y Đoàn” không có một sự bắt buộc nào phải kêu gọi các “người đồng hương” về điều liên quan đến vấn đề này ; tuy nhiên Hồng Y đoàn có thể làm điều đó, nếu vì một lý do nào đó Hồng Y đoàn cảm thấy điều đó phải làm.
Gioan-Phaolô II.
******
Dịp linh thao của năm Thánh 2000 (từ ngày 12 đến 18-03-2000)
(cho bản di chúc)
1. Khi, ngày 16 tháng 10 năm 1978, Hội Đồng mật các Hồng Y chọn Gioan-phaolô II, Vị Giáo Trưởng Giáo Hội Ba Lan, Đức Hồng Y Stefan Wyszynski nói với tôi : “bổn phận của Đức Tân Giáo Hoàng sẽ là phải đưa Giáo Hội vào đệ tam thiên niên kỷ”. Tôi không nhớ chính xác những lời nói của Ngài, nhưng đại để ý nghĩa của lời của Nhân Vật đã đi vào lịch sử như Vị Giáo Trưởng của thiên niên kỷ. Một vị Giáo Trưởng vĩ đại. Tôi đã là nhân chứng của sứ vụ Ngài, của sự phó thác hoàn toàn của Ngài, của những cuộc phấn đấu của Ngài, của sự chiến thắng của Ngài. “Sự chiến thắng, khi nó đến, sẽ là một sự chiến thắng qua Mẹ Maria”. Đức Hồng Y lập lại thường xuyên những lời này của vị đi trước Ngài, Đức Hồng Y August Hlond.
Tôi như thế đã được, một hình thức nào đó, chuẩn bị cho phận vụ mà ngày 16 tháng 10 năm 1978 đã được trao phó cho tôi. Vào lúc mà tôi viết những lời này, Năm Thánh 2000 đã là một thực thể tác động. Đêm 24 tháng 12 năm 1999 chúng tôi đã mở Cánh Cửa biểu tượng của Năm Thánh trong Vương Cung Thánh Đường thánh Phêrô, sau đó là cửa của nhà thờ Thánh Gioan đệ La Trăng (Saint Jean du Latran), rồi đến cửa của nhà thờ Đức Maria Trưởng (Sainte Marie Majeure) – vào Năm Mới, và ngày 19 tháng 01, cánh cửa của Thánh Đường Thánh Phaolô ngoại thành (Saint Paul-hors-les-murs). Biến cố cuối cùng này, vì tính cách hoàn vũ của nó, được ghi ấn trong ký ức một cách đặc biệt.
2. Lần lượt theo sự tiến triển của Năm Thánh 2000, thế kỷ thứ 20 tự đóng dần, ngày này tiếp ngày nọ, sau chúng ta và thế kỷ thứ 21 đang mở trước chúng ta. Theo những dự án của Đấng Quan Phòng, tôi đã được sống trong một thế kỷ khó khăn đang đi vào lịch sử, và bây giờ, năm mà tôi trở thành Bát Tuần (“octogesima adveniens” (lời chú giải : đây là Tông Thư của ĐGH Phaolô VI viết ngày 14.05.1971 về kỷ niệm 80 năm Thông Điệp Rerum Novum của ĐGH Lêô XIII), phải tự hỏi nếu không phải đã đến giờ phải lập lại với Siméon trong Kinh-Thánh “Bây giờ xin hãy cho tôi ra đi” (Nunc dimittis).
Ngày 13 tháng 05 năm 1981, ngày ám sát ĐGH trong buổi yết kiến chung tại công trường thánh Phêrô, Chúa Quan Phòng đã cứu tôi khỏi sự chết một cách nhiệm mầu. Đấng chính là Thiên Chúa duy nhất của sự sống và sự chết đã kéo dài đời sống tôi, một cách nào đó, Ngài đã cho lại tôi đời sống. Từ giây phút đó, đời sống tôi tùy thuộc vào Ngài nhiều hơn nữa. Tôi hy vọng Ngài sẽ giúp tôi nhìn nhận đến lúc nào tôi phải tiếp tục phận sự này mà Ngài đã gọi tôi ngày 16 tháng 10 năm 1978. Tôi xin Chúa vui lòng gọi tôi về với Ngài khi Ngài muốn (coi Rm 14, 8). Tôi cũng hy vọng rằng Lòng Nhân Từ của Chúa vui lòng cho tôi những sức mạnh cần thiết để làm phận vụ này chừng nào tôi còn phải chu toàn phận vụ Giáo Hoàng trong Giáo Hội.
3. Như mỗi năm vào dịp linh thao, tôi đã đọc bản di chúc của tôi viết ngày 06.03.1979. Tôi tiếp tục giữ những điều khoản được lưu tác trong đó. Điều mà, qua những lần cấm phòng kế tiếp, đã được thêm vào, phản ảnh tình thế chung khó khăn và căng thẳng đã in hằn những năm 80. Tình huống này đã thay đổi kể từ mùa thu năm 1989. Thập niên cuối cùng của thế kỷ đã qua, đã không có những căng thẳng của những thập niên trước ; điều này không có nghĩa là thập niên cuối đã không có những vấn đề mới, những khó khăn. Xin ca tụng lòng Chúa Quan Phòng một cách đặc biệt cho sự kiện là giai đoạn của “chiến tranh lạnh” đã được chấm dứt không có tranh chấp bạo lực hạt nhân mà sự đe dọa của nó lơ lửng trên thế giới trong suốt giai đoạn trước.
4. Đứng thẳng trước ngưỡng cửa của đệ tam thiên-niên-kỷ, “giữa lòng Giáo Hội”, tôi ước mong lần nữa diễn tả sự biết ơn của tôi với Chúa Thánh Linh đã ban đặc ân cho Công Đồng Vaticanô II; mà đối với Công Đồng, với toàn thể Giáo Hội – và nhất là với cộng đoàn giám mục hoàn cầu – tôi mang một món nợ. Tôi tự tin rằng những thế hệ tương lai còn có thể múc, trong thời gian lâu dài, những sự phong phú mà Công Đồng này của thế kỷ thứ XX đã ban cho chúng ta. Dưới cương vị của một giám mục đã tham dự vào biến cố công đồng này từ ngày đầu tiên đến ngày cuối cùng, tôi ước mong trao phó di sản vĩ đại này lại cho tất cả những vị đang và trong tương lai sẽ được gọi để thực hiện những quyết định của Công Đồng. Về phần tôi, tôi cảm tạ Vị Chủ Chăn đời đời đã cho phép tôi phục vụ sự-nghiệp lớn lao này trong suốt những năm tháng của ngôi vị giáo hoàng của tôi.
“Giữa lòng Giáo Hội” (In medio Ecclesiae) ... kể từ ngay những năm đầu của sứ mệnh như Giám Mục – chính xác hơn là nhờ vào Công Đồng – tôi đã thu thập được kinh nghiệm của sự thông công huynh đệ của hàng Giám Mục. Như linh mục của tổng giáo phận Cracovie, tôi đã thực nghiệm sự thông hiệp huynh đệ trong linh-mục đoàn – Công Đồng đã đem lại một kích thước mới cho kinh nghiệm này.
5. Có biết bao nhiêu người mà tôi phải viết ra đây ! Có lẽ Chúa đã gọi về với Ngài một số lớn trong nhóm. Về phần những người còn tại thế, ước gì những lời của bản di chúc này nhắc nhớ đến họ, tất cả và mọi nơi, dù họ ở bất cứ nơi nào.
Từ lúc mà tôi chu toàn bổn phận giáo hoàng – nghĩa là hơn 20 năm – “Trong lòng Giáo Hội”, tôi đã thực nghiệm sự cộng tác khoan dung và cũng rất là phong phú của rất nhiều Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, rất nhiều linh mục, những tu sĩ – nam và nữ -  cuối cùng là rất nhiều giáo dân, trong lòng Giáo Triều La Mã, tại giáo phận La Mã cũng như ngoài những nơi này.
Làm sao không thể ôm vào lòng với một sự biết ơn đáng nhớ tất cả các hàng giáo phẩm trên thế giới mà tôi đã gặp trong những lần thăm viếng “mộ các tông đồ” (Ad limina apostolorum). Cũng Làm sao mà không nhớ đến biết bao nhiêu anh em đông đúc kitô hữu – không công giáo ! Vị Giáo Trưởng Do-Thái-Giáo thành La Mã và rất nhiều những vị đại diện các tôn giáo ngoài kitô giáo ! Và biết bao nhiêu những vị đại diện thế giới của lãnh vực văn hoá, của khoa học, của chính trị và của những phương tiện truyền thông xã hội.
6. Dần dà mức giới hạn của đời sống trần gian của tôi tăng trưởng, bằng tư tưởng tôi trở về thuở ban đầu, về cha mẹ tôi, về anh và chị tôi (người mà tôi đã không được biết vì đã chết trước khi tôi sinh ra), về giáo xứ Wadowice, nơi mà tôi lãnh nhận bí tích rửa tội, đến « thành phố này mà tôi đã từng yêu mến biết bao » , đến các đồng hương của tôi, các bạn bè của tôi, bạn trai và gái, đến trường tiểu học, trường trung học, đại học, đến giai đoạn quê hương bị chiếm đóng, lúc tôi làm việc như một thợ thuyền, và sau đó đến giáo xứ Niegowic, đến giáo xứ S. Floriano ở Cracovie, đến mục vụ các đại học, trong nơi chốn ... trong tất cả mọi nơi ... ở Cracovie và tại La Mã ... đến những người đã được trao phó cho tôi một cách đặc biệt bởi Thiên Chúa.
Với tất cả, tôi muốn nói một điều duy nhất : “Chớ gì Thiên Chúa ban thưởng cho quý vị”
“Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin trao phó hồn con”
« In manus Tuas, Domine, commendo spiritum meum »
17.3.2000
Trần Văn-Toàn, chuyển dịch



CHÚC THƯ CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ IIBản dịch của www.thanhlinh.net

“Hãy tỉnh thức vì ngươi không biết giờ nào Chúa đến” (Mt 24:42) - những lời này nhắc nhở tôi về tiếng gọi sau cùng, sẽ đến vào thời gian Chúa chọn. Tôi ao ước được theo Ngài, và ước mong tất cả mọi phần trong đời sống dương thế của tôi sẽ chuẩn bị cho tôi vào giây phút này. Tôi không biết bao giờ giây phút này sẽ đến, thế nhưng cũng như mọi điều khác, tôi đặt giây phút này trong đôi bàn tay Người Mẹ của Chủ tôi: Totus Tuus (mọi sự dâng về Mẹ). Cũng cùng đôi tay Từ mẫu của Mẹ, tôi xin đặt tất cả những người liên hệ gắn bó với đời sống và với ơn gọi của tôi. Trong Đôi Tay này, tôi để lại trên hết tất cả là Giáo hội, cũng như đất nước tôi và mọi dân tộc.

Tôi tạ ơn tất cả mọi người. Xin mọi người tha thứ cho tôi.Và tôi xin mọi người cầu nguyện để xin lòng thương xót của Thiên Chúa rộng lớn bao la hơn là các yếu đuối và bất xứng của tôi.


Trong những buổi tĩnh tâm, tôi suy niệm dựa trên chúc thư của Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI. Từ sự học hỏi này đã dẫn tôi viết ra những lời di chúc hiện tại.

Tôi chẳng để lại tài sản đáng giá nào để chia cả. Những đồ vật sử dụng hằng ngày tôi để lại và chia cho nhau đúng nghĩa. Những bản văn viết tay xin đốt hết. Tôi xin cha Don Stanislaw Stanislao Dziwisz điều hành việc này (thư ký riêng của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Tổng Giám Mục Stanislaw Dziwisz), tôi cám ơn ngài về sự cộng tác và giúp đỡ kéo dài suốt nhiều năm qua và quá hiểu nhau. Tất cả những lời tri ân khác, thay vào đó, tôi đặt vào trái tim tôi mang tới trước chính Thiên Chúa, bởi vì khó diễn tả những điều đó được.


Còn về tang lễ, tôi lập lại cùng cách thức đã được Đức Thanh Cha Phaolô VI đề ra là chôn dưới lòng đất, không phải trong hòm đá (chỗ này được bổ túc vào ngày 13.3.1992).

"Totus Tuus ego sum" (Tiếng La-tinh "Con hoàn toàn ở trong tay Người")

Gioan Phaolô II
Rôma, ngày 6 tháng 3 năm 1979


Sau khi tôi chết, tôi xin có những Thánh Lễ và các lời cầu nguyện (cho tôi).

Ngày 5 tháng 3 năm 1990

*****
Một trang không đề ngày

Tôi bày tỏ niềm tin sâu xa rằng bất kể mọi sự yếu đuối của tôi, Thiên Chúa sẽ ban cho tôi tất cả những ân huệ cần thiết để đối diện theo Thánh Ý Ngài bất kể nhiệm vụ, thử thách hay đau khổ nào mà Chúa đòi hỏi người tôi tớ của Ngài trong cuộc đời của tôi. Tôi cũng có niềm tin rằng Không bao giờ Ngài sẽ cho phép - qua thái độ của tôi: những lời nói, việc làm hay những điều thiếu sót - tôi phản bội lại nghĩa vụ của mình trên Ngai Tòa Thánh Phêrô.

*****

Ngày 24 tháng - 1tháng 3 năm 1980

Cũng trong những buổi tĩnh tâm này, tôi đã suy niệm về sự thật của Chức Tư Tế của Đức Kitô trong viễn ảnh sự Qua Đi dành cho mỗi người chúng ta trong giờ chết. Đối với sự ra đi khỏi thế giới này, là được sinh ra trong thế giới khác, thế giới tương lai, dấu chỉ hùng hồn cho chúng ta là sự Phục sinh của Đức Kitô.

Vì thế, tôi đã đọc bản văn chúc thư của tôi hồi năm ngoái, cũng được viết trong một cuộc tĩnh tâm - Tôi so sánh nó với chúc thư của vị đại tiền nhiệm của tôi là Đức Thanh Cha Phaolô VI, với chứng tá cao siêu đó với sự chết của một Kitô hữu và một Giáo Hoàng - và tôi đã biến đổi nhận thức trong tôi về những vấn đề được đề cập đến trong bản văn ngày 6 tháng 3 năm 1979 do tôi soạn thảo (trong một cách cách thức tạm thời).
Hôm nay, tôi ước mong chỉ thêm vào điều này là: mỗi người chúng ta phải nhớ đến viễn tượng của sự chết. Và phải chuẩn bị ra trình diện chính mình trước mặt Thiên Chúa và Đấng Phán Xét - Đấng đồng thời cũng là Đấng Cứu Chuộc và là Cha. Cả tôi cũng liên tục nghĩ đến điều này, để phó thác giờ phút quyết định ấy cho Mẹ Chúa Kitô và là Mẹ của Giáo Hội, Mẹ của niềm hy vọng của tôi.

Thời điểm chúng ta đang sống khó khăn và rối ren khôn tả. Khó khăn và căng thẳng cũng đã trở thành đời sống của Giáo hội, dấu hiệu thử thách của những thời điểm này - cả cho các Tín Hữu lẫn các Chủ chăn. Trong nhiều Quốc Gia (chẳng hạn, trong nước mà tôi đã đọc trong những cuộc tĩnh tâm này), Giáo Hội thấy mình đang phải trải qua một thời kỳ bị bách hại không thua kém gì các thế kỷ ban đầu, trái lại, mức độ tàn ác và hận thù còn lớn lao hơn. "Sanguis martyrum - semen christianorum.". Và còn vượt quá điều này - nhiều người vô tội phải chết vô tội, ngay cả trong Quốc Gia mà chúng ta đang sống.

Một lần nữa, tôi muốn tín thác chính mình tôi hoàn toàn cho lòng thương xót Chúa. Chính Ngài sẽ quyết định khi nào và cách nào tôi phải chấm dứt cuộc sống nơi dương thế và sứ vụ mục tử của tôi. Dù sống và dù chết Tất Cả Thuộc Về Mẹ Maria Vô Nhiễm. Đã chấp nhận cái chết, ngay cả bây giờ, tôi hy vọng rằng Đức Kitô sẽ ban cho tôi ân huệ cho chặng đường vượt qua cuối cùng, đó là Lễ Phục Sinh. Tôi cũng hy vọng rằng nó sẽ sẽ trở nên lợi ích, đồng thời vì mục đích quan trọng này mà tôi đang nỗ lực phục vụ: ơn cứu độ cho con người, bảo vệ cho gia đình nhân loại, và của mọi quốc gia và dân tộc (trong số này tôi đặc biệt nói tới Quê Hương trần thế của tôi), và lợi ích cho những ai Ngài đã trao phó cho tôi, cho các vấn đề của Giáo Hội, và cho vinh quang của chính Thiên Chúa.

Tôi không muốn thêm điều gì hơn những gì tôi đã viết trước đây một năm - chỉ muốn bày tỏ sự sẵn sàng này, và đồng thời, niềm tin này, mà cuộc tĩnh tâm đã chuẩn bị cho tôi.

Gioan Phaolô II

Ngày 5 tháng 3 năm 1982

Liên quan đến câu cuối cùng trong chúc thư đề ngày 6 tháng 3 năm 1979 ("liên quan đến địa điểm / nghĩa là địa điểm chôn cất / Xin Hồng Y Đoàn và Đồng Bào quyết định") - Tôi muốn làm sáng tỏ điều tôi nghĩ trong đầu về Đức Tổng Giám Mục Chính Tòa Krakow hay Hội Đồng Giám Mục Ba Lan - Trong lúc này tôi xin Hồng Y Đoàn đáp ứng tối đa có thể được các yêu cầu sau cùng của các vị đã kể trên.

*****

Ngày 1 tháng 3 năm 1985 (trong tuần tĩnh tâm)

Lần nữa - về cụm từ “Hồng Y Đoàn và Đồng Bào”: “Hồng Y Đoàn” không buộc phải tham vấn “Đồng Bào” về vấn đề này, tuy nhiên trong bất cứ trường hợp có thể cần làm thế, nếu Hồng Y Đoàn thấy cần phải như thế.

Gioan Phaolô II

******

Cuộc tĩnh tâm Đại Năm Thánh 2000 (ngày 12-18 tháng 3)

(chú thích của Vatican: cho lời di chúc)

1. Vào ngày 16/10/1978, khi mật nghị các Hồng Y chọn Gioan Phaolô II, Giám Mục Ba Lan, Đức Hồng Y Stefan Wyszynski bảo tôi: “Nhiệm vụ của Tân Giáo Hoàng sẽ là dẫn đưa Giáo Hội vào Ngàn Năm Thứ Ba”. Tôi không biết là tôi đang lặp lại những câu này chính xác, nhưng ít nhất đó là cảm giác khi tôi nghe vào lúc đó. Câu ấy đã được nói bởi Con Người đã bước vào lịch sử là một Giám Mục của Thiên Niên Kỷ. Một Giám Mục cao cả. Tôi được chứng kiến cho sứ mạng, cho sự tín thác hoàn toàn của chính Ngài. Cho những chiến đấu của Ngài. Cho chiến thắng của Ngài. “Chiến thắng, khi nó đến, sẽ là một chiến thắng qua Mẹ Maria” - những lời này, và những lời của vị tiền nhiệm của ngài là Đức Hồng Y August Hlond, Giám Mục của Thiên Niên Kỷ đã thường quen lập lại.

Trong cách này, tôi đã chuẩn bị ở mức độ nào đó cho nghĩa vụ đã được đặt trước tôi vào ngày 16/10/1978. Trong khi tôi viết những lời này, Đại Năm Thánh 2000 đã là một thực tại rồi. Đêm 24/12/1999 Cánh cửa tiêu biểu của Đại Năm Thánh tại Đền Thờ Thánh Phêrô đã được mở ra, sau đó đến cửa đền thờ Thánh Gioan Latêranô, rồi đến Đền Thờ Đức Bà Cả trong đêm giao thừa Đầu Năm và Đền Thờ Thánh Phaolô "Ngoài Tường Thành" hôm 19 tháng Giêng. Biến cố sau này cho thấy tính chất đại kết của nó đã để lại ấn tượng trong ký ức tôi cách đặc biệt.

2. Ở mức độ khi Đại Năm Thánh 2000 tiến bước, ngày qua ngày thế kỷ 20 lùi dần sau lưng chúng ta và thế kỷ 21 mở ra. Theo những kế hoạch Quan Phòng của Thiên Chúa, tôi được ban tặng để sống trong một thế kỷ khó khăn đang qua đi, và giờ đây, trong năm mà tuổi đời đã tới 80 năm ('octogesima adveniens'), điều cần được hỏi là nếu không phải là lúc để lặp lại những lời ông Simêôn trong Thánh Kinh 'nunc dimittis'.

Hôm 13 tháng năm 1981, ngày xảy ra vụ ám sát Giáo Hoàng trong buổi triều kiến chung tại quảng trường Thánh Phêrô, Thiên Chúa đã cứu tôi khỏi chết cách lạ lùng. Chính Đấng là Cứu Độ Duy Nhất của sự sống và sự chết cách nào đó đã kéo dài cuộc sống ấy và trong một cách nhất định nào đó đã cho tôi sự sống khác. Từ lúc đó, đời sống càng thuộc về Ngài hơn nữa. Tôi hy vọng Ngài sẽ giúp tôi nhận ra thời giờ cho tới khi tôi phải tiếp tục sứ vụ này mà tôi đã được kêu gọi ngày 16 tháng 10 năm 1978. Tôi xin Ngài gọi tôi khi Ngài muốn. “Dù sống dù chết chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Chúng ta là của Ngài” (x Rm 14,8). Tôi cũng hy vọng rằng bao lâu tôi còn được mời gọi để thi hành sứ vụ của Thánh Phêrô trong Giáo Hội, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa sẽ cho tôi sức mạnh cần thiết cho sứ vụ này.


3. Như tôi vẫn làm hằng năm trong những buổi tĩnh tâm, tôi đọc chúc thư của tôi từ ngày 6 tháng 3 năm 1979. Tôi tiếp tục giữ chiều hướng trong bản văn này. Điều sau này ngay cả trong những lần tĩnh tâm kế tiếp được thêm vào tạo thành một sự suy niệm về tình trạng khó khăn và căng thẳng đánh dấu của những năm 80. Từ mùa Thu năm 1989, thì tình trạng này đã thay đổi. Vào Thập niên cuối cùng của thế kỷ thì không còn những căng thẳng như trước kia nữa; điều đó không có nghĩa là nó không mang đến những trở ngại và những khó khăn mới. Trong một cách đặc biệt, ước gì Thiên Chúa được ca ngợi về điều này, rằng thời gian được gọi là "chiến tranh lạnh" đã chấm dứt mà không có sung đột nguyên tử, một nguy hiểm đã đè nặng thế giới trong thời gian trước đây.

4. Ở trước ngưỡng cửa của Ngàn năm thứ ba "in medio Ecclesiae", tôi mong được một lần nữa bày tỏ lòng tri ân đến Chúa Thánh Thần cho ân sủng lớn lao của Công Đồng Vaticanô II, mà cùng với toàn Giáo hội - và trên tất cả chức cai quản Giáo hội - tôi cảm thấy mang ơn Ngài. Tôi tin rằng thời gian dài tới đây những thế hệ mới sẽ hưởng sử giàu có mà Công đồng này trong thế kỷ 20 đã mang lại cho chúng ta. Là một vị Giám mục đã tham dự biến cố công đồng ngay từ ngày đầu cho tới ngày cuối, tôi ước mong tin thác di sản lớn lao này nơi tất cả những người đang và sẽ được kêu gọi trong tương lai nhận ra công đồng ấy. Phần tôi, tôi cám ơn vị Chủ Chăn hằng hữu đã cho phép tôi được phục vụ đại nghĩa rất lớn lao này trong suốt thời gian của những năm giáo hoàng của tôi.

"In medio Ecclesiae" (giữa lòng Giáo Hội)... từ những năm đầu của mục vụ là một Giám mục, cách riêng xin cám ơn Công Đồng - chính nhờ đó tôi đã có thể kinh nghiệm sự hiệp thông huynh đệ của các chức vụ cai quản Giáo hội. Là một linh mục của Tổng Giáo phận Krakow, tôi đã kinh nghiệm sự hiệp thông giữa các linh mục với nhau - và Công Đồng đã mở ra một chiều hướng mới qua kinh nghiệm này.


5. Bao nhiêu người tôi có thể liệt kê ra cho hết được! Có thể Thiên Chúa đã gọi về với Ngài đại đa số họ rồi - và cho những người vẫn còn ở bên (thế giới) này, ước gì những lời của chúc thư này nhắc nhở họ, mọi người và mọi nơi, bất kể nơi nào họ đang ở.

Trong thời gian hơn 20 năm mà tôi đang hoàn thành sứ vụ của Thánh Phêrô "In medio Ecclesiae" (giữa lòng Giáo Hội) tôi đã kinh nghiệm lòng từ tâm và ngay cả sự cộng tác dồi dào của rất nhiều Hồng Y, các Tổng Giám mục, các Giám mục, rất nhiều linh mục, rất nhiều tu sĩ tận hiến - các thầy, các sơ - và, sau hết, rất nhiều, nhiều lắm các giáo dân, người trong Giáo Triều, trong sở hạt giáo phận Rôma, cũng như ngoài lãnh vực này.

Làm sao tôi không thể ấp ủ những kỷ niệm đầy lòng biết ơn đối với tất cả các Giám mục trên thế giới mà tôi đã gặp trong những lần thăm viếng “viếng Mộ các Thánh Tông Đồ” "ad limina Apostolorum". Làm sao tôi không thể nhớ rất nhiều anh em ngoài Kitô giáo! Và giáo sĩ Do thái Rôma và rất nhiều đại diện của những tôn giáo ngoài Kitô giáo! Và bao nhiêu đại diện của các văn hóa, khoa học, chính trị và tất cả mọi phương tiện truyền thông xã hội trên thế giới!

6. Cuối đời của tôi đang tới, tôi trở về với ký ức của tôi từ thuở ban đầu, với cha mẹ tôi, với anh tôi, với chị tôi (Tôi không biết chị vì chị đã chết trước khi tôi sinh ra), với cộng đoàn ở Wadowice, nơi tôi chịu Phép rửa, với thành phố tôi yêu mến, với những người đồng nhiệp, bạn bè trường tiểu học, trung học và đại học, cho tới thời gian làm việc khi tôi còn là một công nhân, và rồi trong cộng đoàn Niegowic, rồi đến St. Florian's in Krakow, với các giáo sư học viện, với môi trường xã hội của... với tất cả các môi trường... với giáo phận Krakow và với Rôma... với tất cả những người đã tín thác nơi tôi trong một cách đặc biệt do Thiên Chúa gởi tới.


Với tất cả mọi người, tôi muốn nói một điều thôi: "Xin Thiên Chúa trả công cho quý vị"


"In manus tuas, Domine, commendo spiritum meum." 

"Trong tay Ngài, lạy Chúa! con phó dâng linh hồn con."

A.D. ngày 17 tháng 3 năm 2000 

ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II: CHÚC THƯ

******************************


POPE JOHN PAUL II'S LAST WILL AND TESTAMENT

English translation of the official Vatican Italian translation of the text of Pope John Paul II's last will and testament, which was originally written in Polish with successive additions. Dates have been written according to European convention, which makes "6.3.1979" represent March 3, 1979.
The document begins with a Latin phrase that reads, "I am completely in Your hands." It follows with a citation from the New Testament.
The testament of 6.3.1979 

Totus Tuus ego sum 
In the Name of the Holiest Trinity. Amen. 
"Keep watch, because you do not know which day when the Lord will come" — These words remind me of the final call, which will come the moment that the Lord will choose. I desire to follow Him and desire that all that is part of my earthly life shall prepare me for this moment. I do not know when it will come, but, like all else, this moment too I place into the hands of the Mother of My Master: Totus Tuus. In the same maternal hands I place All those with whom my life and vocation are bound. Into these Hands I leave above all the Church, and also my Nation and all humanity. I thank everyone. To everyone I ask forgiveness. I also ask prayers, so that the Mercy of God will loom greater than my weakness and unworthiness.
During spiritual exercises I reflected upon the testament of the Holy Father Paul VI. This study has led me to write the present testament.
I leave no property behind me of which it is necessary to dispose. Regarding those items of daily use of which I made use, I ask that they be distributed as may appear opportune. My personal notes are to be burned. I ask that Don Stanislaw oversees this and thank him for the collaboration and help so prolonged over the years and so comprehensive. All other thanks, instead, I leave in my heart before God Himself, because it is difficult to express them.
Regarding the funeral, I repeat the same disposition given by the Holy Father Paul VI: Burial in the bare earth, not in a tomb, 13.3.92. 

Apud Dominum misericordia et copiosa apud Eum redemptio 
John Paul pp.II 
Rome 6.3.1979 
Following my death I ask for Holy Masses and prayers 
5.3.1990 
___ 
I express the deepest faith that, despite all my weakness, the Lord will accord me every necessary grace to face, according to His will, whatever task, trial and suffering that will be demanded of His servant, during the course of my life. I also have faith that never will it be permitted that, through my behavior: by words, actions or omissions, I betray my obligations in this holy seat of Peter. 
___ 
24.II - 1.III.1980 
Also during these spiritual exercises I have reflected upon the truth of the Priesthood of Christ in the perspective of that Crossing which is for each one of us the moment of death. In taking leave of this world -- to be born into the other, the future world, eloquent sign is for us the Resurrection of Christ. 
I therefore read the copy of my testament of the last year, it also made during spiritual exercises — I compared it with the testament of my great Predecessor and Father Paul VI, with that sublime witness to the death of a Christian and of a pope — and I renewed in myself consciousness of the questions, to which refers the copy of 6.III.1979, prepared by me (in a rather provisional way). 
Today I desire to add to it only this, that each one of us must keep in mind the prospect of death. And must be ready to present himself before the Lord and Judge — and contemporaneously Redeemer and Father. Then I too can take this into consideration continuously, entrusting that decisive moment to the Mother of Christ and of the Church — to the Mother of my hope. 
The times in which we live are indescribably difficult and troubled. Difficult and tense has become the life of the Church as well, characteristic trial of these times — as much for the Faithful, as much as for the Pastors. In some Countries (as, e.g. in that one about which I was reading during the spiritual exercises), the Church finds itself in a period of persecution that is not inferior to those of the first centuries; on the contrary, the degree of cruelty and hatred is greater still. Sanguis martyrum - semen christianorum. And beyond this — so many people disappear innocently, even in this Country, in which we live ... 
I desire once more to entrust myself totally to the mercy of the Lord. He himself will decide when and how I must finish my earthly life and pastoral ministry. In life and in death Totus Tuus through the Immaculate. Accepting this death already, I hope that Christ will give me grace for my final passage, which is Easter. I hope too that it shall be made useful also for this important cause in which I am trying to serve: the salvation of men, the safeguarding of the human family and of all the nations and the peoples (among these I refer in particular to my earthly Country), useful for the persons who in a special way have entrusted to me for the questions of the Church, for the glory of God himself. 
I do not desire to add anything to that which I wrote a year ago — only express this readiness and at the same time this faith, to which the present spiritual exercises prepared me. 
John Paul II 
___ 
Totus Tuus ego sum 
5.III.1982 
In the course of the spiritual exercises this year I have read (several times) the text of the testament of 6.III.1979. Notwithstanding that even now it is to be considered as provisional (not definitive), I leave it in its presently existing form. I change (for now) nothing, nor do I add anything, as regards the arrangements contained within it. 
The attempt on my life of 13.V.1981 has in some way confirmed the exactness of the words written in the period of the spiritual exercises of 1980 (24.II - 1.III). 
All the more profoundly I feel myself totally in the Hands of God — and I remain continually at the disposition of my Lord, entrusting myself to Him and to His Immaculate Mother (Totus Tuus). 
John Paul pp. II 
___ 
5.III.1982 
In connection with the final phrase of my testament of 6.III.1979 ("About the place/the place, that is, of the funeral/may the College of Cardinals and Compatriots") — I clarify what I had in mind: the metropolitan of Krakow or the General Council of the Bishops of Poland — I ask in the meantime the College of Cardinals to satisfy to the extent possible the eventual questions of the aforementioned. 
___ 
1.III.1985 (during spiritual exercises). 
Again — concerning the expression "College of Cardinals and the Compatriots": the "College of Cardinals" has no obligation to consult "the Compatriots" on this question; it can, in any case, do so, if for some reason it considers it right to do so. 
JPII 

___
The spiritual exercises of the Jubilee year 2000 

(12-18.III) 
(VATICAN'S NOTATION: "for the will")
1. When, on the day of Oct. 16, 1978, the conclave of cardinals chose John Paul II, the Primate of Poland Cardinal Stefan Wyszynski told me: "The task of the new pope will be to introduce the Church into the Third Millennium." I do not know if I am repeating the phrase exactly, but at least such was the sense of what I heard then. It was said by the Man who has passed into history as the Primate of the Millennium. A great Primate. I was witness to the mission, to His total entrusting of himself. To His struggles; to His victory. "Victory, when it will come, will be a victory through Maria" — these, the words of his Predecessor, Cardinal August Hlond, the Primate of the Millennium was wont to repeat. 

In this way I was to some degree prepared for the task which was placed before me on Oct. 16, 1978. As I write these words, the Jubilee Year of 2000 is already a reality, and under way. The night of Dec. 24, 1999, the symbolic Door of the Great Jubilee of the Basilica of St. Peter was opened, and successively that of St. John Lateran, then St. Mary Major's on New Year's Eve; and on Jan. 19, the Door of the Basilica of St. Paul "Outside the Walls." This latter event, given its ecumenical character, has remained particularly engraved in memory.
2. To the degree that the Jubilee Year 2000 goes forward, closing behind us day by day is the 20th century, while the 21st century opens. In accordance with the designs of Providence, it was granted to me to live during the difficult century that is passing, and now, in the year during which my age reaches 80 years ("octogesima adveniens"), it is necessary to ask if it is not the time to repeat the words of the Biblical Simeon, "Nunc dimittis." 

On May 13, 1981, the day of the attempt upon the life of the Pope during the general audience in St. Peter's Square, Divine Providence saved me from death in a miraculous way. He who is the sole Savior of life and of death, Himself prolonged this life, and in a certain way gave it to me anew. From this moment it belongs to Him all the more. I hope that He will help me to recognize the time until when I must continue this service, to which he called me on the day of Oct. 16, 1978. I ask (Him) to call me when He wants. "In life and in death we belong to the Lord ... we are of the Lord" (cf Romans 14, 8). I hope too that throughout the time given me to carry out the service of Peter in the Church, the Mercy of God will lend me the necessary strength for this service.
3. As I do every year during spiritual exercises I read my testament from 6-III-1979. I continue to maintain the dispositions contained in this text. What then, and even during successive spiritual exercises, has been added constitutes a reflection of the difficult and tense general situation which marked the '80s. From autumn of the year 1989 this situation changed. The last decade of the century was free of the previous tensions; that does not mean that it did not bring with it new problems and difficulties. In a special way may Divine Providence be praised for this, that the period of the so-called "cold war" ended without violent nuclear conflict, the danger of which weighed on the world in the preceding period.
4. Being on the threshold of the third millennium "in medio Ecclesiae" I wish once again to express gratitude to the Holy Spirit for the great gift of Vatican Council II, to which, together with the entire Church — and above all the entire episcopacy — I feel indebted. I am convinced that for a long time to come the new generations will draw upon the riches that this Council of the 20th century gave us. As a bishop who participated in this conciliar event from the first to the last day, I wish to entrust this great patrimony to all those who are and who will be called in the future to realize it. For my part I thank the eternal Pastor Who allowed me to serve this very great cause during the course of all the years of my pontificate. 

"In medio Ecclesiae" ... from the first years of my service as a bishop — precisely thanks to the Council — I was able to experience the fraternal communion of the Episcopacy. As a priest of the Archdiocese of Krakow I experienced the fraternal communion among priests — and the Council opened a new dimension to this experience.

5. How many people should I list! Probably the Lord God has called to Himself the majority of them — as to those who are still on this side, may the words of this testament recall them, everyone and everywhere, wherever they are. 

During the more than 20 years that I am fulfilling the Petrine service "in medio Ecclesiae" I have experienced the benevolence and even more the fecund collaboration of so many cardinals, archbishops and bishops, so many priests, so many consecrated persons — brothers and sisters — and, lastly, so very, very many lay persons, within the Curia, in the vicariate of the diocese of Rome, as well as outside these milieux. 
How can I not embrace with grateful memory all the bishops of the world whom I have met in "ad limina Apostolorum" visits! How can I not recall so many non-Catholic Christian brothers! And the rabbi of Rome and so many representatives of non-Christian religions! And how many representatives of the world of culture, science, politics, and of the means of social communication!

6. As the end of my life approaches I return with my memory to the beginning, to my parents, to my brother, to the sister (I never knew because she died before my birth), to the parish in Wadowice, where I was baptized, to that city I love, to my peers, friends from elementary school, high school and the university, up to the time of the occupation when I was a worker, and then in the parish of Niegowic, then St. Florian's in Krakow, to the pastoral ministry of academics, to the milieu of ... to all milieux ... to Krakow and to Rome ... to the people who were entrusted to me in a special way by the Lord.
To all I want to say just one thing: "May God reward you." 

"In manus tuas, Domine, commendo spiritum meum."

A.D. 17.III.2000 
JOHN PAUL II: TESTAMENT